Mỗi tản văn viết về chân dung, Trần Nhật Minh tìm đến cách viết cô đọng, là một lát cắt rõ nét, chắt lọc về nhân vật mà anh tiếp xúc, chứng kiến. Đó là nhà thơ Trần Mạnh Thường, nguyên Trưởng ban Văn học nghệ thuật Đài Tiếng nói Việt Nam, người cả cuộc đời dành cho đài tình yêu và trách nhiệm, luôn cẩn trọng và kỹ lưỡng từng chương trình phát sóng. Đó là nhà thơ Lê Đình Cánh mà tác giả gọi là “người đôn hậu”, người đặc biệt giữ vai trò biên tập mảng văn học thiếu nhi có nghề và mỗi chương trình của ông đều có sắc thái riêng. Đó là ngọn gió Trúc Thông với hồn thơ khác lạ, đầy khám phá - người đã mang chất thơ, niềm yêu thơ vào các chương trình “Tiếng thơ” và “Nói chuyện thơ” mà ông phụ trách. Đó là nhà thơ Lâm Huy Nhuận, một người góc cạnh, cá tính trong Ban Văn học nghệ thuật. Đó là nhà thơ Trương Hữu Lợi, người sống hết mình cho công việc, bạn bè, lặng lẽ viết, lặng lẽ say mê. Đó là chân dung thơ và đời Hoàng Nhuận Cầm, người đã mang tình yêu thơ ca lại gần hơn với thính giả đến phút cuối cuộc đời, là nhà thơ Lê Huy Quang - nhà thơ guốc mộc sắc sảo. Viết về họ, những người một thời gắn bó với làn sóng phát thanh bằng tình yêu say mê và nghiêm cẩn, tác giả thể hiện bằng giọng văn trang trọng, yêu kính. Đó cũng là một cách bày tỏ sự tôn trọng, quý mến đối với những thế hệ trước, là những bài học quý cho các thế hệ nối theo sau.
Hà Nội đẹp, sâu lắng và nên thơ qua trang văn của Trần Nhật Minh bởi đã chạm đến vùng ký ức cũ xưa, khi đó Hà Nội nghèo hơn nhưng thênh thang phố xá, phủ đầy cây xanh, phủ đầy tiếng nhạc, lời thơ. Hà Nội còn ẩn chứa những con ngõ hẻm trong lòng phố “nhiều ngõ ngách nhỏ tí hin, xe đi thường phải nhường nhịn tránh nhau, người ở hai nhà đối diện như có thể bắt được tay qua ô cửa, tối lửa tắt đèn mua láng giềng gần. Có ngõ, quán hàng nhộn nhịp, đông vui, lại có hẻm vắng toe, im ắng nghe rõ cả tiếng ngáy trưa ông cụ nằm võng bờ hiên” (Lòng con ngõ nhỏ). Đó là sự hiện hữu của một thời bao cấp đã xa “những đồ đạc ám màu ký ức kể về một thời tem phiếu bao cấp. Đống nồi niêu xoong chảo xủng xoảng gợi nhớ căn bếp hăng hắc bồ hóng. Mấy cái nồi, cái chảo có từ hồi về làm dâu trên căn gác khi phố cổ những năm 60 thế kỷ trước, mẹ giữ như vật quý… Mẹ bảo chúng là ký ức, không dùng nữa nhưng nhìn vẫn thấy ấm lòng. Lũ trẻ lớn lên “khệnh khạng” dự đủ thứ tiệc, bỗng một lúc chạm lên mái tóc thấy sương khói phủ ngày một dày, chợt nao nao ngẫm ngợi những vẻ riêng không cần tô vẽ. Chúng vẫn còn đâu đây trong mỗi căn nhà, trong sự bộn bề này, một mình một góc chưa nguội phai củi lửa, cay cay tròng mắt cuộc đời” (Thời “tóp mỡ”).
Những câu văn nằng nặng, vương vất kỷ niệm khó mờ phai, nó khiến người đọc phải nhớ, nghĩ ngợi và trắc ẩn bởi những điều đã cũ, đã xa. Những hình ảnh quá vãng đồng hiện trong trí nhớ tác giả về căn gác cũ, về người thân, một âm vang thao thiết bởi “phía sau là dằng dặc những buổi chiều lạnh lắm, khi bờ tường rêu in bóng mẹ thập thững đi về, ngọn đèn lát sẽ được thắp lên, khe khẽ sáng một vùng ấm bình an”.
Đọc “Những cuộc trà trên căn gác cũ” để cảm nhận những vỉa tầng tâm hồn thắm thiết của tác giả. Đó là miền lắng sâu của ký ức dội về, dâng lên từng lớp sóng yêu thương...