Khát vọng dưới đáy đầm

Dẫu biết khai thác tận diệt sẽ làm cạn kiệt nguồn thủy sản, song không ít người dân quanh đầm Thủy Triều, huyện Cam Lâm (Khánh Hòa) vẫn "nhắm mắt làm liều". Năng suất khai thác giảm, nguy cơ tái nghèo rất cao nhưng họ vẫn chỉ biết phó mặc cho tự nhiên, trong khi các cơ quan chức năng vẫn lúng túng tìm cách giải quyết.

Chưa có chế tài xử phạt người khai thác bằng lờ dây. Ảnh:NAM ANH
Chưa có chế tài xử phạt người khai thác bằng lờ dây. Ảnh:NAM ANH

Kiếm ăn ngày càng khó

Khi cái nắng tắt hẳn trên đầm Thủy Triều và ngoài biển người đánh bắt gần bờ đã vào neo đậu, dân lặn đầm mới bắt đầu công việc. Từ tám giờ tối, mặt đầm ì oạp tiếng thuyền, tiếng người ngụp lặn và lấp loáng ánh đèn. Ðồ nghề của họ là chiếc bình sục khí, dây nối với bình sục đặt trên thuyền, bình ắc-quy, dây chì nặng chừng 25kg quấn quanh người, đèn pin gắn trên đầu, kính mắt, đồ bơi... Tất nhiên, không thể thiếu chiếc bao tải đựng thành quả. Dự báo gió đêm nay lớn, công việc sẽ vất vả gấp đôi. Ông Ngô Văn Thứ, 60 tuổi ở khu phố Tân Hải (thị trấn Cam Ðức), người có nhiều năm lặn đầm và giờ cả hai con trai theo nghề, nói bằng chất giọng khản đặc: "Kiếm ăn ngày càng khó anh à. Giờ tôm, cá hiếm lắm, chỉ còn những con như đuôi heo (vẽ áo), con giá, con móng tay thôi".

Tôi hỏi: "Sao cứ phải lặn xuống? Và tại sao không làm ban ngày mà lại phải lặn buổi đêm?". Ông Thứ trả lời: "Ðánh nổi không kiếm được gì, chúng tôi khai thác dưới tầng đáy cơ mà. Ở nước bụng đầm thì với người lặn ban ngày hay ban đêm không quan trọng, nhưng ban đêm mới là lúc nhiều loài hải sản cũng đi ngủ, dễ bắt. Nhưng giờ năng suất chỉ bằng một phần tư trước thôi".

Tôi hỏi tiếp: "Vậy dưới đó, động tác đánh bắt thế nào?" Ông Thứ giơ bàn tay nhăn nheo lên trước mặt, nói: "Tay chúng tôi đã được đeo găng, sẽ dùng để chộp những con bò trên mặt bùn, nhặt con sò hoặc móc tay xuống bùn để lấy hải sâm hoặc con giá".

Lời tâm sự ấy nếu chỉ nghe qua thì thấy nhẹ nhàng, nhưng cuộc mưu sinh của người dân dưới đáy đầm không đơn giản như thế. Hơn cả nỗi vất vả, gian khổ, họ phải đối mặt với rất nhiều rủi ro, tai nạn. Hơi thở nặng trịch cùng đôi mắt đỏ au của ông Thứ cho thấy những người dân như ông đã dầm mưa dãi nắng, ngâm mình trong nước thật nhiều.

Là người lặn đầm và có công cải tiến đồ lặn, ông Trần Phổi, Tổ trưởng khu phố Tân Hải tâm sự: "Ðánh bắt giờ khó quá, cạn nguồn rồi. Nhiều người ở đây bị tai nạn, phải cưa chân. Nhưng người ta vẫn đi ra đầm vì chưa biết làm gì khác. Hàng nghìn người vẫn sống nhờ vào nó. Ước gì đầm lại dồi dào như xưa". Rất nhiều người dân cho biết, khoảng sáu, bảy năm trước một em bé chỉ cần lội men theo bờ đầm một lúc là có thể kiếm được năm kg ngao, nhưng nay người lớn dầm mình mò mẫm cả ngày cũng chỉ được vài kg. Hay mỗi đêm lặn đầm (từ tám giờ tối đến bốn giờ sáng hôm sau), một người dân cũng kiếm được 200 nghìn đồng, nay khá thì được 100 nghìn, còn bình thường chỉ được 50 nghìn.

Tất cả là tại... cái lờ dây! Theo tìm hiểu, lờ dây (hay còn gọi lưới lồng) là một loại ngư cụ dạng bẫy liên hoàn với nhiều lồng bẫy liên kết thành một tay có chiều dài 10m, có khả năng "quét sạch" trong dòng nước.

Hưởng lợi từ đầm, nhưng nhiều người dân cũng là thủ phạm khiến đầm suy kiệt.

Nguy cơ tái nghèo

Hiện tại khu phố Tân Hải có 321 hộ dân, với 1.570 nhân khẩu, lại tới 70% số người tham gia việc lặn đáy đầm và đến 90% thu nhập từ nghề. Tương tự, các thôn Bãi Giếng (thị trấn Cam Ðức), Suối Cam (xã Cam Thành Bắc), Thủy Triều (xã Cam Hải Ðông)... cũng có gần 70% số người sống nhờ đầm Thủy Triều bằng các hình thức lặn đáy đầm và đánh lờ dây. Như vậy, hàng vạn người sống phụ thuộc vào sự sinh sôi nảy nở của nguồn thủy sản trong đầm, song chính việc sử dụng lờ dây, kích điện khiến cho nhiều loài lâm vào tình trạng tiệt chủng, giảm năng suất khai thác.

Chỉ vào những bọc giá con trai ông vừa thu mua của người dân để chuẩn bị xuất ra Hà Nội, Hải Phòng, ông Trần Phổi sốt ruột: "Ðấy, chỉ kiếm được những con đơn giản này, thu nhập của bà con giảm nhiều, trong khi mọi thứ tăng. Có nhà vừa làm vừa ăn đong từng bữa". Nói xong ông Phổi dẫn tôi ra vườn, giới thiệu: "Không có đất trồng lúa, trồng rau, cây xoài thì mất mùa mà có cho quả thì giá rẻ. Mấy năm nay năng suất đánh bắt giảm thảm hại".

Cách đây mấy năm, những người có trách nhiệm trong khu phố Tân Hải đã vận động người dân... nói không với lờ dây! Kết quả thu được chỉ trong phạm vi hẹp. Ông Ngô Văn Tân, Tổ trưởng bảo vệ khu phố Tân Hải bức xức: "Người dân chúng tôi chấp hành lệnh cấm mà khu phố đề ra rất tốt, nhưng những người dân ở thôn, xã khác thì không chịu. Cũng có khi chúng tôi chạm mặt người dùng lờ dây, nhắc nhở thì họ gây gổ, dọa đánh. Thi thoảng có xảy ra va chạm. Cứ tiếp tục như vậy thì không ổn chút nào cả".

Chung nỗi niềm, ông Nguyễn Văn Xuân ở thôn Thủy Triều (Cam Hải Ðông) tỏ ra lo ngại: "Xưa bà con dùng lưới bén, đánh bắt thô sơ, đồng tiền kiếm được tuy hạn chế nhưng an toàn cho đầm. Ngày nay ai cũng cố bắt sạch, bắt hết chỉ cốt thu lợi. Các loài thủy sản không tái sinh được, đầm sẽ "đói", mà chính người dân cũng không biết sẽ khai thác được trong bao lâu. Rất nhiều người biết dùng lờ dây là bị ảnh hưởng đến chính việc đánh bắt lâu dài, nhưng vẫn cứ làm vì nó mau kiếm ra tiền. Sống nhờ đầm, nhưng bà con cũng là thủ phạm hại đầm".

Tìm một hướng đi

Có lẽ, việc hạn chế sử dụng lờ dây lúc này là giải pháp hữu hiệu nhất để bảo đảm nguồn thủy sản trong đầm. Tuy nhiên, vấn đề không nằm ở chỗ cứ muốn bảo vệ là được. Từ năm 2008, UBND huyện Cam Lâm cũng có Chỉ thị về tăng cường quản lý việc khai thác, đánh bắt thủy sản, có mục cấm lờ dây, bẫy rập, nghề đáy. Tuy nhiên theo đại diện huyện, Chỉ thị vẫn dừng ở mức tuyên truyền là chính, chưa có chế tài xử lý. Trước vấn đề đang đặt ra, ông Nguyễn Văn Ðẩu - Chi cục trưởng Chi cục Khai thác bảo vệ nguồn lợi thủy sản Nha Trang trải lòng: "Chúng tôi chưa được tỉnh giao cho tuần tra, kiểm soát đánh bắt trên mặt nước. Trước năm 2007 thì thuộc thẩm quyền của chúng tôi, nhưng sau đó thuộc về Thanh tra Sở NN&PTNT. Hai năm một lần, chúng tôi vẫn thả con giống xuống đầm, nhưng ngay cả con giống cũng bị tóm ngay lập tức".

Cũng "bí" trong khâu xử lý, ông Lê Văn Dũng - Chánh thanh tra Sở NN&PTNT cho hay: "Chưa có văn bản pháp luật nào cho phép thanh tra bắt phạt đối tượng dùng lờ dây. Chúng tôi chỉ có thể phối hợp với cảnh sát giao thông biển khép vào tội thả lờ làm ảnh hưởng đến an toàn đường biển thôi. Và có làm thì bà con cũng phản ứng dữ dội. Nó ảnh hưởng đến miếng cơm manh áo của họ mà".

Trước thực trạng nhức nhối này, tôi ngược lên Sở LÐ-TB và XH Khánh Hòa, ông Mai Xuân Trí, Phó Giám đốc Sở cho biết: Ngành đang nghiên cứu tìm giải pháp việc làm cho bà con. Bên cạnh đó, nằm trong Ðề án "Ðào tạo nghề cho lao động nông thôn" của Chính phủ, thời gian qua công tác đào tạo nghề cho ngư dân ở đầm Thủy Triều đã bắt đầu được triển khai. Tuy nhiên, nhiều người dân vẫn chưa mặn mà.

Tiếp đó, UBND tỉnh Khánh Hòa đã có Ðề án 375 về tổ chức lại sản xuất, đào tạo nghề cho bà con vùng đầm. Trước mắt Ðề án vẫn xoáy vào những hoạt động tổ chức nuôi trồng thủy hải sản. Ước mong có công việc ổn định, anh Nguyễn Xuân Phong, một thợ lặn ngoi lên mặt nước, tâm sự: "Chẳng ai muốn mình lặn đầm mãi. Bà con chúng tôi kiếm ăn ở dưới nước mà cứ mong ngày được lên bờ, đại thể như có một khoảnh đầm để nuôi ngao. Nhưng mặt nước cũng không còn sạch nữa".

Rõ ràng, những phương cách chuyển đổi nghề nghiệp còn lúng túng. Trong khi đó vấn đề xử lý, cải tạo cũng như biện pháp nhằm khai thác bền vững khu vực đầm Thủy Triều còn nhiều vướng mắc. Và chuyện tái nghèo sẽ là điều không thể tránh khỏi, nếu những khiếm khuyết kể trên không sớm được khắc phục.

Bà Trần Mai Thị Kim Hòa (Chủ tịch UBND xã Cam Hải Ðông):

Chúng tôi đang hướng số bà con đang sống bám vào đầm phát triển nghề trồng rong biển và nuôi hàu. Rong biển đã được trồng một số diện tích, còn nuôi hàu thì chúng tôi đang thí điểm vài mô hình, cho kết quả rất tốt. Ngoài ra, chúng tôi vận động bà con phát triển thêm nghề trồng trọt, chăn nuôi.

Theo thông tin của Thanh tra Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Khánh Hòa, địa bàn huyện Cam Lâm có 180 phương tiện đánh bắt sử dụng lờ dây, ước tính khoảng 174.000m, trong đó có 120 tàu, mỗi tàu sử dụng 200 chiếc; 60 tàu còn lại mỗi tàu sử dụng 100 chiếc. Thật là những con số đáng ngại!