Hồn Huế trong nhà Hoàng

Đối với những người yêu văn hóa, chẳng ngại ở xa hay gần, tìm ra thêm một món đồ thời xưa chính là niềm hạnh phúc, tự hào nhất. Hiện nay, cổ vật của triều Nguyễn đang được các nhà sưu tầm ở Thừa Thiên Huế bảo vệ cẩn thận, mở ra hướng lưu giữ bền vững cho tương lai.
Nhà sưu tập Nguyễn Hữu Hoàng giới thiệu các cổ vật gốm.
Nhà sưu tập Nguyễn Hữu Hoàng giới thiệu các cổ vật gốm.

Bộ sưu tập để đời

Hàng nghìn hiện vật có niên đại từ 100 đến 1.000 năm được trưng bày trang trọng, một số món nằm ngăn nắp trong tủ kính, kích thước lớn nhỏ đa dạng, họa tiết là các bức tranh vẽ trên nền mầu trắng… đó chính là bộ sưu tập đồ cổ được anh Nguyễn Hữu Hoàng, trú phường Vỹ Dạ, thành phố Huế dành gần 30 năm lặn lội khắp nơi tìm kiếm. Để lưu giữ một kho tàng cổ vật đồ sộ, hiểu rõ từng thời kỳ xuất hiện hay câu chuyện lịch sử gắn với các món đồ đều xuất phát từ hai chữ “đam mê” của anh Hoàng.

Từ năm 17 tuổi, chỉ có một chiếc xe đạp cọc cạch, chàng thanh niên Hoàng năm đó cứ rong ruổi ngày nắng buổi mưa đi nhặt từng món đồ mà theo anh nhận định là đồ cổ. Chiếc bình vôi bể miệng, chiếc đĩa nứt cạnh nằm lăn lóc dưới gốc cây, vệ đường đều được anh Hoàng mang về nhà. Kết hợp vài chiếc đĩa lâu năm của gia đình, hướng đi sưu tầm chuyên nghiệp của anh Hoàng đã bắt đầu.

Dường như cái hồn Huế xưa đã có trong suy nghĩ của nhà sưu tầm này rất sớm. Nhớ lại giai đoạn chập chững vào nghề, cứ nghe tin món đồ nào lạ mà bản thân chưa có thì sự háo hức trong anh Hoàng lại trỗi dậy. Thời gian đó, nguồn tư liệu, sách vở nghiên cứu chuyên sâu chưa có, bằng kinh nghiệm cá nhân, anh cho biết: “Một khi đã đi sưu tầm cổ vật thì bản thân tôi phải tìm hiểu cụ thể, chính xác. Khi đã hiểu sâu rồi thì sẽ càng mê, càng thích từng chiếc đĩa, bình gốm”.

Những món đồ của Vua Thiệu Trị lưu lạc đến Cửa Việt (Quảng Trị) hay đồ của chúa Nguyễn nằm lại ở vùng Lao Bảo… là các cổ vật điển hình đã được anh Hoàng tìm ra. Hành trình lần mò đi theo tư liệu, lời kể của người quen, đến khi tìm ra món đồ cổ và mang về nhà, anh Hoàng vẫn chưa hiểu hết vì sao đồ cổ cung đình Huế lại xuất hiện ở các nơi xa như vậy. Nhiều câu hỏi “vì sao?”, “như thế nào?” xoay quanh cổ vật vẫn từng ngày được anh kết nối cùng đồng nghiệp, những người thầy trong nghề để được giải đáp.

“Khi làm nghề sưu tầm này, tôi nhận ra rằng, tre già thì măng sẽ mọc. Hiện nay, các nhà nghiên cứu văn hóa Huế nổi tiếng đã lớn tuổi. Tuy nhiên trong thực tế, lớp trẻ kế cận lĩnh vực này vẫn còn ít. Cho nên, việc kết nối và học hỏi kinh nghiệm của lớp tiền bối trong nghề là điều rất cần thiết. So trước kia thì bây giờ đã có nhiều công cụ, máy móc hỗ trợ rất tốt trong công tác sưu tầm cổ vật. Thêm một người hiểu biết về cổ vật thì chắc chắn món đồ đó sẽ được bảo vệ lâu hơn, bài bản hơn”, anh Hoàng bày tỏ.

Bộ sưu tập đồ sứ ký kiểu thời Nguyễn của anh Hoàng.

Bộ sưu tập đồ sứ ký kiểu thời Nguyễn của anh Hoàng.

Duyên nợ với vùng cao

Khu vực biên giới các tỉnh Thừa Thiên Huế, Quảng Trị giáp với nước bạn Lào là nơi gắn bó, mang nhiều kỷ niệm trong hành trình tìm kiếm cổ vật của Hoàng. Mỗi chuyến đi với chặng đường dài hàng trăm km, đến khi được tận mắt chứng kiến chiếc áo của vua, các quan đại thần, mọi mệt nhọc đều biến mất. Đến nay, hầu hết cổ vật cung đình trong bộ sưu tập riêng của anh Hoàng được tìm thấy ở huyện vùng cao Hướng Hóa (Quảng Trị). “Không ai nghĩ trên đó lại có đồ cổ của vua, đặc biệt lại được bà con dân tộc Vân Kiều, Pa Cô ở đó bảo vệ rất kỹ lưỡng. Có một số già làng kiên quyết không cho mình đem ra khỏi làng”, anh Hoàng nói.

Sự liên kết trong câu chuyện lịch sử các đời vua chúa nhà Nguyễn với những khu vực vùng cao, miền núi luôn thôi thúc các nhà sưu tầm, người yêu văn hóa Huế tìm bằng được nguồn gốc, cho dù là chi tiết nhỏ nhất. 10 năm, 20 năm là khoảng thời gian anh Nguyễn Hữu Hoàng thuyết phục, “ăn dầm nằm dề” trên núi cao vì quá say mê cổ vật đang được các già làng cất giữ. Với thực trạng số lượng cổ vật thật sự liên quan về lịch sử, chứa đựng giá trị văn hóa ngày càng suy giảm, nếu không được bảo quản kỹ lưỡng thì chất lượng đồ cổ sẽ xuống cấp rất nhanh. Đó luôn là một nỗi lo của người đi sưu tầm.

Bộ sưu tập của anh Hoàng có gần 200 chiếc áo, trong đó gồm áo của vua, Hoàng Thái hậu cùng các quan triều Nguyễn. Chất liệu vải áo thời xưa cần được bảo quản đúng cách để có thể tồn tại lâu dài. Nhận thấy các bảo tàng sẽ đủ điều kiện làm việc đó nên anh Hoàng đã quyết định chuyển nhượng 50 chiếc áo trong bộ sưu tập đến Bảo tàng Lịch sử TP Hồ Chí Minh; cùng với đó, 80 chiếc áo khác được chuyển đến các nhà sưu tầm tư nhân trong nước.

Cộng đồng sưu tầm cổ vật ở Thừa Thiên Huế hiện tại có hàng chục thành viên. Mỗi cá nhân có một sở thích, cách sưu tầm hiện vật khác nhau. Dù vậy, trước mỗi thông tin về món đồ lịch sử nào đó được tìm ra, các nhà sưu tầm đều có điểm chung ở niềm tự hào khi “bức tranh cổ vật” của quê hương có thêm một cột mốc mới, một cổ vật mới. Đặc biệt, có thể kể đến chiếc tô cổ miêu tả cảnh chợ chiều xứ Huế và bài thơ “Thuận Hóa vãn thị” của Chúa Nguyễn Phúc Chu. Đến nay, cả nước chỉ còn duy nhất một chiếc và đang nằm trong bộ sưu tập của anh Hoàng.

Theo anh Hoàng, việc sưu tầm cổ vật không chỉ dừng lại ở việc tìm kiếm cho riêng cá nhân mỗi người. Hành trình đưa cổ vật được trở về lại vùng đất, dòng tộc, nơi sinh ra món đồ đó mới thật sự mang lại ý nghĩa cao cho cộng đồng. Mất hàng năm trời lặn lội tìm kiếm đồ cổ để gửi tặng lại chủ nhân thật sự của món đồ là việc làm thường xuyên trong cộng đồng những người đi sưu tầm.

Cổ vật là niềm tự hào của dân tộc

Nhà nghiên cứu, chuyên gia cổ vật Trần Đình Sơn cho rằng, giá trị của cổ vật sẽ tuỳ thuộc vào đối tượng, mục đích của việc sưu tầm. Có thể kể đến mục đích sưu tầm cổ vật để nghiên cứu, chứng minh các giai đoạn phát triển lịch sử của loài người hay của mỗi dân tộc. Cùng với đó, các cổ vật quý hiếm có giá trị kinh tế cao như những vật dụng của vua chúa được chế tác bằng các nguyên liệu ngọc ngà, vàng bạc... thường gọi là đồ ngự dụng của các triều đại đã qua được nhiều nhà sưu tầm quan tâm.

“Đến nay, cố đô Huế may mắn vẫn còn lưu giữ khá nhiều cổ vật cung đình triều Nguyễn. Nhóm cổ vật này hiện đang được bảo quản, trưng bày tạm thời tại tòa Điện Long An hoặc trong các phủ đệ, từ đường các ông hoàng, bà chúa thế gia vọng tộc. Một kho bảo vật không nơi nào có được thì đến nay vẫn chưa xây dựng được một bảo tàng đúng chuẩn để hoạt động nhằm đem lại hiệu quả tốt, thật đáng tiếc. Muốn giữ gìn được di sản văn hóa của dân tộc để truyền lại lâu dài cho đời sau thì đó vừa là trách nhiệm của Nhà nước, đồng thời điều này cũng là trách nhiệm của từng gia đình, cá nhân”, ông Sơn bày tỏ.

Trong giai đoạn hiện nay, nhờ các phương tiện truyền thông hiện đại, thủ thuật quảng cáo sôi động nên giới sưu tầm cổ vật trên thế giới đã chú ý đến cổ vật Việt Nam. Hơn nữa, một bộ phận Việt kiều cùng những cá nhân thành đạt trong nước đã chú ý sưu tầm, thưởng ngoạn, đầu tư vào thị trường hội họa, cổ ngoạn trong cộng đồng. Do đó, giá trị cổ vật, hội họa Việt Nam đã có cơ hội phát triển nhanh chóng.

Với câu chuyện chiếc ấn vàng “Hoàng đế chi bảo” của triều Nguyễn vừa qua được ông Nguyễn Thế Hồng, Chủ tịch Hội Cổ vật Bắc Ninh hồi hương về nước hay trước đó, bộ mũ quan triều Nguyễn cũng đã quay về Việt Nam... khiến giới sưu tầm quốc tế ngưỡng mộ. Theo ông Sơn, đó là một thực tế đáng mừng.

Có được kết quả ngày càng có nhiều cổ vật quý hiếm trở về cố quốc thì di sản văn hóa Việt Nam sẽ trở nên phong phú hơn. Trong tương lai, người dân trong nước có nhiều cơ hội tìm hiểu, thưởng ngoạn các quốc bảo, điều mà trước đây rất khó có điều kiện tận mắt nghiên cứu, học hỏi. Đó là niềm hãnh diện chung của dân tộc về di sản văn hóa.