Di sản kiến trúc xin đừng lãng  quên!

Di tích kiến trúc chiếm một tỷ lệ khá lớn trong hệ thống di sản văn hóa lịch sử của cả nước. Nhưng nhiều năm qua, loại hình di tích này đang bị mai một, lãng quên và mất mát khá lớn. Quản lý hệ thống di tích này như thế nào để vừa bảo vệ những giá trị văn hóa, lịch sử, kiến trúc nghệ thuật, vừa phục vụ được yêu cầu sử dụng và phát triển? Chúng tôi có cuộc trò chuyện với  PGS, TS Ðặng Văn Bài, Phó Chủ tịch Hội Di sản Văn hóa Việt Nam.
Không gian cổ kính của làng Cự Ðà (Thanh Oai - Hà Nội). Ảnh: An Thành Ðạt
Không gian cổ kính của làng Cự Ðà (Thanh Oai - Hà Nội). Ảnh: An Thành Ðạt

- Thưa ông, di sản kiến trúc cần được nhìn nhận như thế nào trong tổng thể hệ thống di sản văn hóa dân tộc?

- Nói về di sản kiến trúc, có lẽ chúng ta phải nhìn nhận ở tầm vĩ mô hơn, đó là không gian sinh tồn của nó. Không gian kiến trúc mang dấu ấn nhân tạo, nhưng bao giờ cũng gắn với địa vực thiên nhiên. Trong hệ thống đô thị Việt Nam có hàng loạt các thành phố, các trung tâm như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Ðà Nẵng hay một số đô thị đặc biệt như Sa Pa, Tam Ðảo, Ðà Lạt... đều chứa đựng những di sản kiến trúc có giá trị. Rồi những trung tâm cổ như làng Cả (Việt Trì), Cổ Loa, Hoa Lư, Hoàng thành Thăng Long, cố đô Huế, thành nhà Hồ, thành Gia Ðịnh, v.v. Có thể nói di sản kiến trúc lớn nhất, tiêu biểu nhất nằm ở hệ thống đô thị, tiêu biểu là các kinh đô cổ, rồi đến các đô thị đặc thù. Trong từng đô thị lại có khu vực trọng điểm, thí dụ Hà Nội có khu vực Thành cổ, khu phố cổ, khu phố cũ. Huế thì có khu Ðại nội, khu vực lăng tẩm phía nam sông Hương... Trong những khu vực như vậy lại có trọng điểm. Thí dụ như Hoàng thành Thăng Long chẳng hạn, tiêu biểu nhất, hạt nhân nhất chính là điện Kính Thiên... Ðối với những di tích cụ thể, thì giá trị nằm ở không gian cảnh quan, chi tiết kiến trúc và nội thất...

- Ông có thể đánh giá sơ bộ số lượng, giá trị của hệ thống di sản kiến trúc hiện còn?

- Hiện nay, qua kiểm kê sơ bộ, cả nước có hơn 40 nghìn di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh nói chung. Trong đó di tích kiến trúc nghệ thuật chiếm khoảng hơn 40%. Tuy nhiên con số đó chỉ là tương đối thôi. Nếu xét đặc thù Việt Nam thì không có thôn nào, làng nào là không có di tích kiến trúc dạng thiết chế tôn giáo tín ngưỡng: đình, đền, chùa, miếu. Có thể xếp là di tích kiến trúc nghệ thuật, nhưng cũng đồng thời gắn liền lịch sử, văn hóa. Mặc dù do nhiều nguyên nhân khách quan mà một khối lượng lớn di sản kiến trúc đã bị tàn phá, mất mát. Nhưng những gì còn lại cũng chưa được đánh giá đúng và chưa được quản lý tốt.

- Vâng, về mặt quản lý Nhà nước, chúng ta cần phải làm gì để bảo vệ di sản kiến trúc?

- Phải hiểu đó là tài sản văn hóa, để tiến hành thống kê, kiểm kê, đánh giá xếp hạng để tập trung quản lý về mặt Nhà nước. Nhanh chóng xếp hạng cũng là một cách làm thức tỉnh nhận thức xã hội, đồng thời cũng quy định rõ trách nhiệm bảo vệ và phát huy giá trị di sản ấy. Khi xếp hạng rồi, chúng ta sẽ có cơ sở pháp lý để xử lý những vi phạm, ngăn chặn những hành vi vi phạm, thậm chí có thể giải tỏa, cưỡng chế những vi phạm trước đó. Tôi cho rằng, việc đánh giá giá trị di sản để xếp hạng là rất quan trọng, để đặt di tích dưới sự bảo hộ của Nhà nước.

-Vậy công tác xếp hạng các di tích kiến trúc chúng ta đã làm được đến đâu và có những khó khăn gì, thưa ông?

- Trong số hơn bốn vạn di tích lịch sử văn hóa, kiến trúc nghệ thuật nói chung, chúng ta mới chỉ xếp hạng hơn 4.000 thôi. Trong đó, có 23 di tích quốc gia đặc biệt, hơn 4.000 di tích cấp tỉnh. Việc thống kê nghiên cứu xếp hạng đối với loại hình di tích này cũng nằm trong chương trình bảo tồn di sản nói chung. Cái khó chính là nhận thức về giá trị của các công trình kiến trúc. Trong khi đó thì di sản kiến trúc nằm rải rác và không chịu sự quản lý của Nhà nước, việc nghiên cứu thống kê thì chậm trễ khiến sự mất mát nhiều khi biết mà không thể cứu vãn. Có nhiều di tích mất rồi mới biết. Sau khi xếp hạng cần có những chương trình để bảo vệ, tu bổ, phục hồi, tôn tạo làm kéo dài tuổi thọ hoặc vĩnh cửu hóa di tích, và chuyển giao cho đối tượng sử dụng một cách có hiệu quả. Chúng ta thiếu cơ sở pháp lý cũng như thiếu nguồn nhân lực để tiến hành công tác quản lý, bảo vệ.

- Trước nhu cầu phát triển, chúng ta nên ứng xử với những công trình kiến trúc cũ, cổ và kiến trúc truyền thống như thế nào?

-  Quan điểm của tôi là làm thế nào tạo lập được sự hài hòa giữa di tích kiến trúc và không gian, giữa bảo vệ và phát triển: đó là bảo vệ di sản nhưng không cản trở phát triển, đồng thời lại không hy sinh những giá trị vốn có của di sản để đáp ứng bằng được nhu cầu phát triển. Thay đổi gì cũng phải không làm sai lệch giá trị ban đầu, có thể cải tiến công năng sử dụng nhưng phải hài hòa. Bây giờ chúng ta chưa tạo lập được sự hài hòa đó, bởi đối với di tích kiến trúc rất phức tạp: có rất nhiều các thành tố liên quan.Thí dụ: riêng mỗi mái đình, đền, chùa đều liên quan đến không gian làng, cảnh quan, tín ngưỡng, văn hóa cộng đồng dân cư. Còn như đối với một đô thị chẳng hạn, thì còn là một quá trình phát triển lâu dài, mang dấu ấn nhiều thời đại.

Ðiều quan trọng nhất, theo tôi, chúng ta phải có quy hoạch tổng thể về di sản kiến trúc trên cả nước để có phương án bảo vệ tốt nhất. Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch năm 2001 đã có quy hoạch tổng thể các di sản văn hóa lịch sử trong cả nước rồi, nhưng chủ yếu chỉ mới đưa ra quan điểm chung và mới bàn đến di tích đơn chiếc, hoặc cùng lắm là quần thể thôi chứ chưa có quy hoạch theo đô thị.

- Chính vì chưa có quy hoạch bảo vệ và phát huy phù hợp nên thời gian qua chúng ta để mất mát quá nhiều di sản kiến trúc giá trị. Thí dụ như hàng trăm biệt thự kiểu Pháp ở Tam Ðảo hiện hầu như không còn dấu vết, hoặc nhiều không gian làng cổ bị phá vỡ chẳng hạn. Theo ông, chúng ta cần phải rút ra bài học gì về bảo tồn di sản kiến trúc?

- Xét trên góc độ kiến trúc đô thị, đó là những giá trị cần được gìn giữ và phát huy. Ðặc biệt, quy hoạch kiến trúc của thế hệ trước có nhiều điều đáng để cho chúng ta nghiên cứu. Những kiến trúc truyền thống của cha ông có thể thấy rất rõ thái độ ứng xử thân thiện, hài hòa với thiên nhiên. Kiến trúc truyền thống của người Việt trọng chiều sâu chứ không phát triển hoành tráng chiều cao để thách đố thiên nhiên. Rồi quy hoạch đô thị của người Pháp, đúng là họ "chấm điểm nào trúng điểm ấy", xây dựng rất phù hợp với yếu tố khí hậu và đặc điểm văn hóa vùng miền. Những công trình kiến trúc đó, họ nghiên cứu kỹ và tôn trọng không  gian văn hóa bản địa, phù hợp thời tiết từng vùng. Ðến lượt chúng ta cần phải nghiên cứu kỹ càng và nếu có thể giữ lại, kế thừa được cái gì thì nên làm, chứ không nên phá bỏ. Phá biệt thự cũ đi để xây chung cư hoặc nhà cao tầng kiểu mới, theo tôi là một xu hướng sai lầm. Bởi di sản không chỉ để lại là những công trình vật chất đẹp về giá trị kiến trúc nghệ thuật, mang ý nghĩa lịch sử mà còn để lại nhiều bài học cho chúng ta về xây dựng, thiết kế, quy hoạch đô thị từ tổng thể đến chi tiết.

- Xin cảm ơn ông!  

* Cái khó chính là nhận thức về giá trị của các công trình kiến trúc. Trong khi đó thì di sản kiến trúc nằm rải rác và không chịu sự quản lý của Nhà nước, việc nghiên cứu thống kê thì chậm trễ khiến sự mất mát nhiều khi biết mà không thể cứu vãn. Có nhiều di tích mất rồi mới biết...