1/Do bối cảnh lịch sử, công trình khoa học của các chuyên gia khoa học xã hội và nhân văn lớp trước còn mang tính “khép kín” và chỉ được phổ biến lưu hành phạm vi trong nước. Từ năm 1995 đến nay, khi mạng xã hội phát triển, xu thế đa phương hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng thì lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn Việt Nam mới có điều kiện giao lưu và học hỏi nhiều hơn. Theo đó, các công trình nghiên cứu của đội ngũ khoa học xã hội và nhân văn nước ta cũng được xuất hiện và lan tỏa các giá trị trên nhiều tạp chí, hội nghị và hội thảo khoa học quốc tế.
Trong khoảng 10 năm trở lại đây, nhất là từ năm 2016 đến nay, công bố quốc tế của khoa học xã hội và nhân văn so khoa học tự nhiên và công nghệ còn hạn chế nhưng đã có bước chuyển biến tích cực. Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam có hơn 30 đơn vị nghiên cứu, hằng năm có 100 - 170 bài báo khoa học được đăng trên các tạp chí quốc tế; thậm chí trong hai năm 2018 - 2019, Viện có hơn 360 công trình bao gồm các bài báo, chương sách, báo cáo khoa học được công bố trên các tạp chí, nhà xuất bản và kỷ yếu hội thảo ở nước ngoài.
Trường đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội gần 10 năm qua đã hình thành và phát triển các nhóm nghiên cứu mạnh về lịch sử, ngôn ngữ học, kinh tế - kinh doanh, tâm lý học. Khảo sát của Ths Hồ Mạnh Toàn (Trường đại học Phenikaa) cho thấy, năm 2020 công bố quốc tế của chuyên ngành tâm lý học đạt 132 bài (năm 2016 chỉ là 33); chuyên ngành ngôn ngữ đạt 77 (năm 2016 là 27). Đặc biệt chuyên ngành kinh tế năm 2016 chỉ có 107 bài thì năm 2020 đã đạt hơn 1.000 công trình (xếp thứ 20 theo hệ thống Scopus). Đáng chú ý, một số chuyên ngành được coi là đặc thù ở Việt Nam như triết học, khoa học chính trị, thư viện và khoa học thông tin, nhân học trước 2016 công bố quốc tế chỉ đếm trên đầu ngón tay thì đến các năm 2019 - 2020 đã nâng lên hai con số (từ 20 đến 60 - 70 công trình/năm).
Từ năm 2015 đến nay, Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ quốc gia (NAFOSTED) hỗ trợ các nhà nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn khoảng 100 - 130 đề tài, nhiệm vụ với các chuyên ngành triết học, kinh tế học, xã hội học, lịch sử, khảo cổ học, văn hóa, ngôn ngữ, dân tộc học, quốc tế học, tâm lý học, báo chí truyền thông… Đây thật sự là “chất xúc tác” góp phần nâng cao cả về số lượng và chất lượng công bố quốc tế của lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn ở nước ta.
2/Tuy nhiên, hằng năm số lượng công bố quốc tế của khoa học xã hội và nhân văn so công bố của lĩnh vực khoa học tự nhiên và công nghệ còn thấp (chỉ chiếm hơn 10%). Đáng suy nghĩ là Việt Nam vẫn còn khoảng cách so các nước trong khu vực như Malaysia, Singapore và Thailand. Đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn của cả nước hiện có hơn 1.000 GS, PGS và TS, nhưng số lượng và chất lượng bài báo khoa học công bố quốc tế hằng năm còn thấp (chỉ 25 - 30% đạt chuẩn ISI/Scopus). Ngay Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Trường đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Hà Nội và TP Hồ Chí Minh chiếm phần lớn số GS, PGS và TS của lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn cả nước với hơn 300 GS, PGS và hàng nghìn TS, Ths, nhưng hằng năm số công bố thuộc danh mục tạp chí ISI/Scopus vẫn chưa tương xứng với tiềm lực thực tế.
Bên cạnh một số vấn đề có tính đặc thù (chính trị học, lịch sử Đảng, luật học, tôn giáo, dân tộc học…) theo GS Phạm Quang Minh (nguyên Hiệu trưởng Trường đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội), còn không ít cán bộ lười nghiên cứu; thiếu nghiêm túc trong nhận thức về sự cần thiết phải có công bố quốc tế trong hoạt động học thuật của mình.
Thực tế, do hạn chế tiếng Anh nên không hiếm cán bộ giảng viên gặp khó khăn trong trao đổi, thảo luận tại các hội nghị khoa học với chuyên gia nước ngoài dẫn đến khó hợp tác trong nghiên cứu những vấn đề cùng quan tâm. Chúng ta cũng thiếu cập nhật phương pháp nghiên cứu; trong tư duy vẫn thể hiện một chiều, thiếu phê phán và phản biện nên khó được các tạp chí quốc tế chấp nhận.
Để công tác nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học và công nghệ có nhiều sản phẩm được công bố trên trường quốc tế, rất cần các cơ quan chức năng, các trung tâm nghiên cứu, giáo dục và đào tạo quan tâm đầu tư cho lĩnh vực này. Đó cũng là cách thức để mở rộng cánh cửa giao lưu tri thức ra thế giới.