Chặn đà giảm sinh ở Việt Nam

Việt Nam đang phải đối mặt với mức sinh báo động. Xu hướng giảm dưới mức sinh thay thế, tổng tỷ suất sinh năm 2023 là 1,96 con/phụ nữ, thấp nhất từ trước tới nay.
0:00 / 0:00
0:00
Miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập cho trẻ em lứa tuổi mầm non, tiểu học là một trong nhiều giải pháp khuyến khích sinh. Ảnh: SONG ANH
Miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập cho trẻ em lứa tuổi mầm non, tiểu học là một trong nhiều giải pháp khuyến khích sinh. Ảnh: SONG ANH

Xu hướng tất yếu

Theo Cục Dân số (Bộ Y tế), năm 1999 trung bình mỗi phụ nữ Việt Nam trong độ tuổi sinh đẻ có 2,33 con. Từ năm 2009 đến nay, tỷ suất sinh tăng nhẹ, hoặc giảm nhẹ quanh mức (2,1 con) và đến năm 2023, theo thống kê mới nhất, mỗi phụ nữ Việt Nam có 1,96 con, thấp nhất từ trước đến nay.

Nhìn nhận vấn đề này, GS, TS Giang Thanh Long, giảng viên cao cấp, Trường đại học Kinh tế quốc dân cho rằng, khi kinh tế ngày càng phát triển, việc giảm sinh gần như là một xu hướng tất yếu do nhu cầu cuộc sống ngày càng đòi hỏi cao hơn, có chất lượng hơn, đặc biệt trong việc chăm sóc, nuôi dạy con.

Tuy vậy, tốc độ giảm sinh tại Việt Nam diễn ra sớm hơn so nhiều quốc gia khác trên thế giới với những lý do rất tự nhiên của xã hội như quá trình đô thị hóa nhanh cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội gắn liền với các lý do khó khăn về nhà ở, chi phí sinh hoạt gia đình, chi phí nuôi dạy con…, đặc biệt ở các khu vực đô thị là những áp lực không nhỏ dẫn đến việc ngại kết hôn và sinh con.

Thời gian tới, tốc độ giảm sinh tại Việt Nam có thể còn cao hơn, đặc biệt với nhóm dân số được gọi là “thế hệ bánh kẹp”, đó là thế hệ phải có trách nhiệm hỗ trợ, chăm sóc cho ông bà, bố mẹ không được bao phủ bởi an sinh xã hội (như không có hưu trí, trợ cấp và có thu nhập thấp) cùng lúc với việc phải nuôi nấng con cái với các chi phí giáo dục, y tế và nhà ở ngày càng cao.

PGS, TS Nguyễn Đức Vinh, Viện trưởng Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam cho rằng, một quốc gia muốn dân số ổn định thì tỷ lệ sinh cần đạt ít nhất là mức sinh thay thế (2,1 con/phụ nữ). Khi tỷ lệ sinh giảm, số lượng người trong độ tuổi lao động cũng giảm, dẫn đến tình trạng thiếu hụt lao động trong tương lai. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng phát triển kinh tế và duy trì tốc độ tăng trưởng của đất nước. Điển hình như Nhật Bản, kinh tế nước này gần đây bị chững lại, thậm chí là suy thoái. Một trong những nguyên nhân chính được các nhà nghiên cứu đưa ra là do tỷ lệ sinh thấp, tỷ lệ người già trong dân số cao.

Trên thực tế, những nước phát triển đều gặp vấn đề già hóa dân số khi đã trở thành quốc gia phát triển công nghiệp hóa. Tuy vậy, với năng suất lao động cao, nên dù người lao động ít đi nhưng những nền kinh tế phát triển vẫn đủ điều kiện tạo ra thặng dư bù đắp cho lao động nhiều tuổi. Ngoài ra, họ có đủ điều kiện về kinh tế để thu hút lao động nhập cư bù đắp thiếu hụt lao động trong nước do tác động lâu dài của tỷ lệ sinh thấp.

Tìm giải pháp

Tại Hội thảo quốc tế tham vấn chính sách, giải pháp ngăn chặn xu hướng mức sinh thấp, GS, TS Nguyễn Thiện Nhân, nguyên Bí thư Thành ủy TP Hồ Chí Minh cho rằng, để phát triển dân số bền vững, mỗi gia đình sinh đủ 2 con thì thu nhập của một gia đình với hai người đi làm phải nuôi được 4 người (tức là 2 người lớn, 2 trẻ em). Vì vậy, cần có các chính sách phù hợp chuyển từ quy định lương tối thiểu sang quy định lương đủ sống tối thiểu cho gia đình 4 người. Bên cạnh đó là các yếu tố khác như thời gian làm việc của người lao động phải đủ ngắn (8 giờ lao động/ngày, 40 giờ/tuần) để họ có thời gian tìm bạn đời, chăm sóc con cái, gia đình và sở thích riêng tư.

Tuy vậy, PGS, TS Nguyễn Đức Vinh cũng cho rằng, việc trả lương phải liên quan đến năng suất lao động. Nếu năng suất lao động không tăng mà yêu cầu doanh nghiệp tăng lương tối thiểu lên gấp đôi tức là gần như buộc các doanh nghiệp phá sản. Thêm một thực tế là ở châu Âu thu nhập cao gấp nhiều lần Việt Nam nhưng mức sinh vẫn thấp, cho thấy việc sinh con không phải là do yếu tố khách quan mà là chủ quan của từng thế hệ và từng gia đình.

Để kéo mức sinh lên thì ngoài bảo đảm thu nhập người lao động cao hơn, cần phải kết hợp với nhiều chính sách khác như trợ cấp hằng tháng, tăng thời gian thai sản, hỗ trợ chính sách về thuê nhà hay mua nhà, dịch vụ chăm sóc trẻ nhỏ, chi phí giáo dục và y tế. “Khi tính toán nguồn lực, nhiều gia đình chỉ có điều kiện sinh một con, thậm chí không muốn sinh con. Lâu dần sẽ tạo ra một chuẩn mực chung cho thế hệ sau. Lúc đấy, sẽ rất khó khăn và tốn kém nguồn lực để nâng tỷ lệ sinh lên. Vì vậy, Việt Nam cần nhanh chóng xem xét và đưa ra các chính sách một cách đồng bộ”, PGS, TS Nguyễn Đức Vinh nêu rõ.

Về giải pháp, Cục Dân số cho biết, dự thảo Luật Dân số đang được xây dựng có đề xuất 4 biện pháp nhằm khuyến khích sinh đủ hai con tại tỉnh, thành phố có mức sinh thấp. Cụ thể: đề xuất hỗ trợ một lần bằng tiền khi phụ nữ sinh con thứ 2; miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập cho trẻ em lứa tuổi mầm non, tiểu học...; cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp tham gia cung cấp dịch vụ tư vấn, hỗ trợ hôn nhân và gia đình được hưởng các chính sách khuyến khích xã hội hóa trong lĩnh vực y tế; xây dựng môi trường, cộng đồng phù hợp tạo điều kiện cho các cặp vợ chồng sinh đủ hai con, chăm sóc và nuôi dạy con tốt, chia sẻ trách nhiệm giữa các thành viên gia đình; quy định trách nhiệm xã hội của người sử dụng lao động đối với người lao động nuôi con nhỏ và các biện pháp khác.