Thu hẹp khoảng cách từ quy hoạch đến thực thi

Đề án Phát triển cây ăn quả chủ lực đến năm 2025 và 2030 được định hướng giúp các địa phương và cơ quan chức năng quản lý tốt quy hoạch, tìm kiếm đầu ra cho sản phẩm… Song, để sớm đạt hiệu quả cao vẫn cần đồng bộ nhiều giải pháp.
Phát triển cây ăn quả trên cơ sở phát huy tiềm năng, lợi thế các vùng sinh thái; bảo vệ môi trường sinh thái, thích ứng với biến đổi khí hậu. Ảnh: Thành Đạt
Phát triển cây ăn quả trên cơ sở phát huy tiềm năng, lợi thế các vùng sinh thái; bảo vệ môi trường sinh thái, thích ứng với biến đổi khí hậu. Ảnh: Thành Đạt

Những năm qua, câu chuyện người dân đổ xô trồng một số loại cây ăn quả theo phong trào dẫn đến nguồn cung thừa, khiến giá bán xuống thấp đã xảy ra. Tại miền Tây, nông dân đã từng bỏ lúa trồng mít, đến khi giá mít giảm thì ồ ạt chặt mít trồng sầu riêng. Bây giờ giá sầu riêng lại có nguy cơ rớt mạnh, nông dân chưa biết sẽ chuyển sang trồng gì, nhưng nguy cơ chặt sầu riêng là khó tránh khỏi.

Cái khó của công tác quy hoạch

Lý giải cho những khó khăn, bất cập trong tổ chức và thực hiện công tác quy hoạch vùng trồng cây ăn quả, có thể thấy, công tác quy hoạch vùng trồng do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cùng phối hợp với địa phương xây dựng kế hoạch, định hướng chung mới chỉ mang tính khuyến cáo. Chính vì không mang tính chất pháp lý ràng buộc, thiếu cơ chế, chính sách hỗ trợ, biện pháp chế tài phù hợp và hiệu quả, khiến cho tình trạng mở rộng diện tích sản xuất hàng loạt, thiếu kiểm soát khi nhu cầu thị trường tiêu thụ tăng đột biến vẫn diễn ra tràn lan. Người nông dân loay hoay với vòng xoáy "được mùa, mất giá".

Một điểm quan trọng nữa, thời gian qua các địa phương quy hoạch vùng trồng cây ăn quả chủ yếu theo điều kiện tự nhiên, tức là chủ yếu căn cứ vào điều kiện về khí hậu, thổ nhưỡng, nguồn nước… của mỗi vùng để xác định vùng trồng cho các loại cây ăn quả có đặc điểm sinh thái phù hợp với điều kiện tự nhiên của vùng đó, mà chưa làm tốt khâu quy hoạch vùng trồng với quy mô hàng hóa tập trung cho từng chủng loại cây trồng cụ thể theo dự báo nhu cầu, tín hiệu thị trường.

Cái khó của công tác quy hoạch còn là thiếu khâu nghiên cứu kỹ và dự báo được nhu cầu thị trường một cách chính xác để từ đó xác định quy mô diện tích của từng loại cây ăn quả. Nhiều trường hợp quy hoạch một đàng, nhà vườn làm một nẻo; công tác quản lý, giám sát không theo kịp sự chuyển đổi cơ cấu cây trồng ở địa phương. Điều này dẫn đến nhà vườn tự do trong việc xác định loại cây trồng, quy mô diện tích và cách thức đầu tư, dẫn đến không chỉ làm phá vỡ quy hoạch mà còn đưa đến những hệ lụy khác.

Mặt khác, thiếu sự song hành, đồng bộ trong việc xây dựng, bổ sung, điều chỉnh của cơ chế, chính sách, nguồn lực tài chính, xác định chính xác danh mục ưu tiên đầu tư, sự hợp tác công-tư,… khi thực hiện quy hoạch vùng trồng, phát triển cây ăn quả. Điển hình là công tác quy hoạch vùng trồng cây ăn quả ở nhiều địa phương chưa đi đôi với việc phát triển cơ sở hạ tầng như đường sá, kho bãi, các nhà máy chế biến, các nơi thu mua, bảo quản... trên thực tế, cho dù trong các quy hoạch nông nghiệp có đề cập.

Chấm dứt "điệp khúc trồng-chặt"?

Đề án Phát triển cây ăn quả chủ lực đến năm 2025 và 2030 đưa ra quan điểm chỉ đạo hứa hẹn giải quyết được căn bản tình trạng được mùa mất giá trong sản xuất cây ăn quả hiện nay. Điều quan trọng là đề án cần phải được triển khai sớm và đồng bộ từ các cơ quan từ trung ương đến địa phương. Trong đó, vai trò của các địa phương trong khâu tổ chức sản xuất, cung ứng, liên kết tiêu thụ, đa dạng hóa sản phẩm từ trái cây là rất cần thiết, góp phần quan trọng vào việc điều tiết cung-cầu trái cây.

Thêm vào đó, cần chú trọng khâu khảo sát và xác định loại trái cây có nhu cầu thị trường, đi đôi với công tác tổ chức sản xuất bài bản, áp dụng kỹ thuật và công nghệ trong tất cả các khâu từ khâu giống, chăm sóc, thu hái, bảo quản trái cây… Rải vụ là khâu quan trọng nhằm phân bổ nguồn cung trái cây kéo dài nhiều tháng trong năm hạn chế tập trung vào những khoảng thời gian ngắn… Khâu chế biến và phát triển thị trường sản phẩm mới là giải pháp quan trọng để các địa phương chủ động trong xây dựng vùng nguyên liệu với quy mô diện tích, sản lượng cho từng chủng loại cây ăn quả.

Điều kiện cần cho việc ổn định thị trường giá cả vẫn là thực hiện các hợp đồng liên kết tiêu thụ sản phẩm. Hợp đồng giữa các doanh nghiêp, các nhà máy chế biến, các siêu thị... về quy mô sản lượng và loại trái cây theo từng thời gian cung ứng với giá cả thỏa thuận trước sẽ giúp nhà vườn, nhà sản xuất hạn chế rủi ro về giá cũng như hạn chế được tình trạng được mùa mất giá như hiện nay.

Tăng cường vai trò dẫn dắt, đầu tàu của các bộ, ngành

Để Đề án sớm đi vào cuộc sống và đạt hiệu quả cao, thiết nghĩ Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cùng với các bộ, ngành Trung ương phối hợp địa phương sớm triển khai thực hiện Đề án, xây dựng kế hoạch hành động chi tiết, trong đó khâu khảo sát, đánh giá thực địa và xác định vùng trồng, phát triển cây ăn quả theo hướng hàng hóa tập trung, bảo đảm chất lượng, hiệu quả cho từng vùng, tiểu vùng ở các địa phương là những việc ưu tiên làm ngay.

Cùng đó tăng cường vai trò dẫn dắt, đầu tàu của các bộ, ngành trong hỗ trợ doanh nghiệp không ngừng đàm phán, tìm kiếm thị trường tiêu thụ mới, duy trì và mở rộng thị trường xuất khẩu truyền thống. Tiếp tục phối hợp với bên có liên quan (trong và ngoài nước) trong việc tháo gỡ vướng mắc, khó khăn, rào cản kỹ thuật,… trong sản xuất, lưu thông và thông quan hàng hóa nhằm đẩy mạnh xuất khẩu quả chính ngạch vào thị trường Trung Quốc, mở rộng các thị trường khó tính khác như Nhật Bản, Mỹ, Canada, Hàn Quốc, Liên minh châu Âu (EU), Australia… Quan tâm phát triển thị trường ASEAN, Trung Đông, Bắc Phi... Cần phát huy và tận dụng lợi thế các hiệp định thương mại tự do (FTA) giữa Việt Nam và các nước, các khu vực trên thế giới (CPTPP, EVFTA, UKVFTA, RCEP,…).

Rất cần có vai trò "nhạc trưởng" trong điều phối, liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm giữa các địa phương, giải quyết các "nút thắt" và là "cầu nối" hiệu quả giữa sản xuất và tiêu thụ, giữa trung ương và địa phương, đặc biệt trong điều tiết sản xuất rải vụ, nghịch vụ giúp kéo giảm áp lực sản lượng trái cây tập trung chính vụ; kết nối tiêu thụ, cung ứng sản phẩm giữa địa phương và các đô thị trung tâm; bảo đảm sự ổn định, cạnh tranh lành mạnh, giữ vững uy tín chất lượng trái cây khi xuất khẩu. Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng các liên kết ngang (các tổ hợp tác, hợp tác xã,…) và thực hiện tốt khâu liên kết dọc (liên kết giữa những người sản xuất với các nhà kinh doanh trái cây như nhà xuất khẩu, nhà chế biến, siêu thị…).

Nhà nước cần hỗ trợ đầu tư xây dựng trung tâm thu thập dữ liệu hoàn chỉnh từ sản xuất, thông tin thị trường, xuất khẩu,… trên cơ sở đó giúp cho các nhà quản lý hoạch định chính sách, doanh nghiệp, hợp tác xã,… có thể phân tích, đánh giá, dự báo thị trường tiêu thụ trong và ngoài nước và xây dựng chiến lược, kế hoạch sản xuất và tiêu thụ một cách thực tiễn, linh hoạt hơn…

Bên cạnh đó, việc ngành nông nghiệp đang có những vận động về chính sách để tích tụ các nguồn lực thúc đẩy các mô hình sản xuất trên diện tích đất lớn (đại điền trong nông nghiệp) là một trong những chỉ dấu sẽ giúp ngành cây ăn quả có bước nhảy vọt trong thời gian tới.

Theo Đề án Phát triển cây ăn quả chủ lực đến năm 2025 và 2030,

mục tiêu nước ta đến năm 2025 diện tích cây ăn quả đạt 1,2 triệu ha, sản lượng hơn 14 triệu tấn; trong đó, diện tích cây ăn quả chủ lực 960 nghìn ha, sản lượng 11-12 triệu tấn. Tại các vùng sản xuất cây ăn quả tập trung tỷ lệ diện tích cây ăn quả áp dụng quy trình thực hành sản xuất nông nghiệp tốt (VietGAP và tương đương…) là 30%; kim ngạch xuất khẩu trái cây đạt hơn năm tỷ USD. Đến năm 2030, diện tích cây ăn quả cả nước đạt 1,3 triệu ha, sản lượng hơn 16 triệu tấn; trong đó, diện tích cây ăn quả chủ lực một triệu ha, sản lượng 13-14 triệu tấn…

Thống kê của Cục Trồng trọt, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho thấy, chỉ riêng tại đồng bằng sông Cửu Long, diện tích cây ăn quả từ năm 2010-2020 liên tục tăng mạnh. Theo đó, năm 2010 diện tích cây ăn quả toàn vùng là hơn 287.000ha, đến năm 2020 vọt lên gần 378.000ha, bình quân mỗi năm tăng gần 10.000ha. Các cây trồng chủ lực như thanh long đạt 23.700ha, tăng 22.800ha; sầu riêng 24.900ha, tăng 20.100ha. Trong đó, diện tích mít từ chỗ gần như không đáng kể, đã vọt lên mức "khủng" 30.000ha, tăng 29.800ha.

Có thể bạn quan tâm