Liên kết đào tạo nghề giữa nhà trường và doanh nghiệp

Thiếu mắt xích quan trọng

Trong khi xã hội đang đòi hỏi gắt gao nguồn nhân lực chất lượng cao, thực học và thực nghiệp, thì hằng năm rất nhiều sinh viên ra trường chưa đáp ứng được nhu cầu thực tiễn. Vì sao các cơ sở đào tạo và những đơn vị sử dụng lao động chưa thể tìm được tiếng nói chung trong quá trình liên kết đào tạo, giảng dạy và xa hơn là nghiên cứu khoa học?

Hằng năm rất nhiều sinh viên ra trường chưa đáp ứng được nhu cầu thực tiễn. Ảnh: TRẦN HẢI
Hằng năm rất nhiều sinh viên ra trường chưa đáp ứng được nhu cầu thực tiễn. Ảnh: TRẦN HẢI

Cái khó bó cái khôn

"Tốt nghiệp... thất nghiệp", đó là tựa của một bức biếm họa cười ra nước mắt được đăng báo gần đây. Không hề cường điệu, bức biếm họa đó nhằm minh họa cho một thực trạng của giáo dục đại học Việt Nam hiện nay. Theo số liệu điều tra của Tổng cục Thống kê, tính đến thời điểm 1-10-2012, trong số gần một triệu người thất nghiệp tại Việt Nam có đến xấp xỉ 18% trình độ cao đẳng và đại học (cao đẳng 5,6%, đại học trở lên 11,3%). Tình trạng cử nhân phải đi làm những công việc không cần bằng cấp như lễ tân, tiếp thị, hoặc bảo vệ không hiếm, kể cả đối với sinh viên tốt nghiệp những trường tốp trên.

Sinh viên tốt nghiệp để rồi thất nghiệp vì thiếu kỹ năng; doanh nghiệp tuyển nhân sự phải bỏ thêm chi phí đào tạo trước khi sử dụng là sự lãng phí khó có thể chấp nhận. Nhưng làm thế nào để giải quyết tình trạng này? Câu trả lời dường như đã có sẵn, đó là sự liên kết chặt chẽ giữa doanh nghiệp và nhà trường trong quá trình đào tạo.

Song, làm thế nào để xác lập và duy trì có hiệu quả sự liên kết ấy?

Trong những năm gần đây, mặc dù hầu hết các trường đại học đều có ý thức về vấn đề này và đã có những nỗ lực lớn nhỏ khác nhau để tạo ra mối liên kết với các doanh nghiệp, nhưng kết quả đạt được còn rất hạn chế. Không kể đến một vài nhân sự trong khối doanh nghiệp có tham gia giảng dạy ở các trường dưới góc độ quan hệ cá nhân, sự tham gia của doanh nghiệp đối với quá trình đào tạo tại các trường hiện nay nếu có thường chỉ dừng lại ở khâu nhận sinh viên vào thực tập. Nhưng ngay cả trong việc này thì nhiều doanh nghiệp cũng không thật sự hào hứng, vì cho rằng các sinh viên thực tập chỉ làm vướng chân chứ không đóng góp được gì. Nói cách khác, các doanh nghiệp không mặn mà bắt tay với các trường, đơn giản là vì họ không thấy có ích lợi gì trong việc hợp tác này.

Còn nhà trường thì sao? Câu trả lời là thiếu mặn mà. Ngay cả trong việc thực tập - một yêu cầu bắt buộc của quá trình đào tạo - nhiều trường cũng phó mặc sinh viên tự đi liên hệ, miễn là có sự xác nhận của doanh nghiệp như một thủ tục bắt buộc, rồi sau đó làm một báo cáo mang tính hình thức, vậy là xong.

Phải chăng sự gắn kết giữa nhà trường và doanh nghiệp hoàn toàn phụ thuộc vào lòng tốt và ý thức về trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp? Nếu vậy, chừng nào "lòng tốt" và "trách nhiệm" ấy chưa nảy sinh thì việc sinh viên "ra trường để thất nghiệp" vẫn sẽ là điều hiển nhiên.

"Vòng xoắn ba"

 Kinh nghiệm của các nước công nghiệp phát triển có thể sẽ gợi mở cho chúng ta một vài ý tưởng. Thật vậy, ở các khu vực này, sự liên kết chặt chẽ giữa các trường đại học và doanh nghiệp được xem là một điều kiện bảo đảm cho sự tồn tại và phát triển của cả hai phía trong nền kinh tế cạnh tranh toàn cầu ngày nay.

Cần lưu ý rằng, mối quan hệ giữa nhà trường và doanh nghiệp tại các nước phát triển là mối quan hệ bình đẳng, hai bên cùng có lợi, chứ không chỉ là sự hỗ trợ từ một phía.

Tại các nước này, các trường đại học - nhất là các trường có uy tín cao - đồng thời cũng là những trung tâm sáng tạo với những phát minh sáng chế quan trọng, nơi tụ tập những tài năng lớn và đội ngũ nghiên cứu chuyên nghiệp, được nhà nước đầu tư đáng kể về phòng thí nghiệm, trang thiết bị hiện đại để thực hiện những công trình nghiên cứu có tầm cỡ. Tận dụng nguồn lực này để giải quyết những vấn đề riêng lẻ qua những hợp đồng khoa học công nghệ chắc chắn sẽ mang lại lợi ích kinh tế cao hơn so với việc từng doanh nghiệp tự đầu tư - tất nhiên là trừ những doanh nghiệp lớn, có sẵn bộ phận nghiên cứu và phát triển.

Nhưng mối quan hệ thuận lợi giữa nhà trường và doanh nghiệp tại các nước phát triển không tự nhiên mà có. Thông qua hệ thống chính sách và môi trường pháp lý, vai trò của nhà nước luôn hiện diện. Đó chính là mô hình "vòng xoắn ba" (triple helix) gồm nhà trường - doanh nghiệp -nhà nướcmà các tài liệu về nghiên cứu của phương Tây thường hay đề cập đến. Một thí dụ rõ ràng là vấn đề sở hữu trí tuệ. Chính vì nhà nước đã tạo ra được một môi trường, nơi sản phẩm trí tuệ của các nhà khoa học được bảo vệ chặt chẽ, nên các nhà khoa học hoàn toàn yên tâm nghiên cứu và phổ biến các ý tưởng sáng tạo của mình rộng rãi đến công chúng. Cùng đó, nhà nghiên cứu, nhà trường và doanh nghiệp càng mong muốn có nhiều người biết đến và áp dụng các ý tưởng và giải pháp của mình để sinh lợi.

Một khía cạnh khác là vấn đề kiểm định nghề nghiệp và cấp chứng chỉ hành nghề. Ở Mỹ, các hội nghề nghiệp có một vai trò rất quan trọng trong quá trình đào tạo của các trường đại học. Hội nghề nghiệp là nơi xác định các tiêu chuẩn năng lực cần có và nội dung của các kỳ thi cấp chứng chỉ hành nghề của một người bắt đầu bước chân vào một ngành nghề chuyên nghiệp nào đó.

Những tiêu chuẩn này đồng thời cũng được đưa vào bộ tiêu chuẩn kiểm định chương trình đào tạo (còn gọi là kiểm định nghề nghiệp, thí dụ như tiêu chuẩn của ABET) để đánh giá chất lượng đào tạo của các trường. Thông qua kiểm định nghề nghiệp, nội dung chương trình đào tạo của các trường sẽ thường xuyên được đánh giá về mức độ cập nhật và phù hợp với thị trường, nhằm tránh tình trạng sinh viên ra trường nhưng không có những kỹ năng nghề nghiệp cần thiết. Nhà nước không cần can thiệp vào quá trình kiểm định này, mà chỉ công nhận giá trị của các tổ chức kiểm định nghề nghiệp, và đưa ra các chính sách tài chính đối với người học và nhà trường.

Sinh viên đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh đang thực nghiệm, nghiên cứu trong phòng thí nghiệm.

Giải pháp cho Việt Nam

Kinh nghiệm của các nước phát triển về "vòng xoắn ba" khiến chúng ta không khỏi thắc mắc.

Phải chăng sự gắn kết giữa nhà trường và doanh nghiệp còn lỏng lẻo là do vòng xoắn hiện còn thiếu một mắt xích thứ ba: vai trò của Nhà nước? Nếu các doanh nghiệp không mặn mà với các trường vì họ không được lợi từ mối quan hệ này, thì liệu nhà nước đã có chính sách gì để khuyến khích sự gắn kết ấy ?

Nhà nước có vai trò ra sao trong khi tuyệt đại đa số giảng viên các trường đại học ở ta không say sưa nghiên cứu khoa học; khi tình trạng vi phạm quyền sở hữu trí tuệ còn tràn lan trên mọi lĩnh vực; khi bằng cấp thật, chất lượng dỏm dường như ngày càng trầm trọng vì số trường đại học mở ra thì nhiều nhưng chưa có một hệ thống kiểm định hoàn chỉnh?

Vâng, có lẽ điều cần làm để giải quyết tình trạng hiện nay không phải là tiếp tục nhấn mạnh tầm quan trọng của việc liên kết với doanh nghiệp, hoặc kêu gọi hỗ trợ quá trình đào tạo của các trường để chứng tỏ trách nhiệm xã hội. Đòi hỏi lúc này là nhanh chóng xây dựng một vài chính sách vĩ mô tác động vào mối liên kết nói trên, chẳng hạn như chính sách về kiểm định nghề nghiệp. Nếu không thì hàng năm, số lượng sinh viên tốt nghiệp xong để tham gia vào lực lượng thất nghiệp không những không giảm mà có thể còn cao hơn.

Thông qua hệ thống chính sách và môi trường pháp lý, vai trò của nhà nước luôn hiện diện. Đó chính là mô hình "vòng xoắn ba" (triple helix) gồm nhà trường - doanh nghiệp - nhà nước. Chính vì nhà nước đã tạo ra được một môi trường, nơi sản phẩm trí tuệ của các nhà khoa học được bảo vệ chặt chẽ, nên các nhà khoa học hoàn toàn yên tâm nghiên cứu và phổ biến các ý tưởng sáng tạo của mình rộng rãi đến công chúng.