Sông Côn là dòng sông lớn nhất của tỉnh Bình Ðịnh, chảy từ Tây Sơn thượng đạo qua hạ đạo rồi xuôi ra biển; núi Kiếm là hòn núi dài trong quần thể Hoành Sơn bên bờ sông Côn tương quan với hòn ấn, song hành với hòn Bút hòn Nghiên, hòn Chiêng, hòn Trống... những "cặp phạm trù" của các vế đối hoàn chỉnh và giàu ý nghĩa. Trong võ Bình Ðịnh, ngoài kiếm là gươm thì côn đồng nghĩa với roi.
Ðất võ là xứ sở của các bậc anh hùng hào kiệt, mà anh hùng hào kiệt đâu chỉ được hình dung bằng các đấng trượng phu "nam nhi chi chí". Trước tiên, đây là đất của Người Mẹ - Nữ Thần cai quản đất đai sông núi. Tín ngưỡng thờ Mẹ Xứ Sở của người Chăm đã được bản địa hóa cùng với tục thờ Thánh Mẫu của người Việt, tạo nên cuộc hỗn dung văn hóa trên một dải núi sông miền trung, trong đó có Bình Ðịnh, qua những truyền thuyết kỳ thú và nghi lễ thiêng liêng. Chiêm ngưỡng những đền tháp với phù điêu tượng đá Chăm-pa, sẽ thấy trong đó thế giới các thần luôn sinh động biến hóa và đặc biệt, tính chất âm dương luôn hòa hợp với biểu tượng sinh thực khí nam nữ Linga-Yoni. Trong ba vị thần tối cao Hủy Diệt, Sáng Tạo và Bảo Tồn của Ấn Ðộ giáo, luôn luôn có những nữ thần sắc nước hương trời bên cạnh. Thần Vishnu thường nằm cho vợ là nữ thần Lakshmi - nữ thần của sự giàu có và may mắn - vuốt chân; vợ thần Brahma là người đẹp Sarasvati - nữ thần của học vấn và là thần đỡ đầu của nghệ thuật, khoa học và ngôn từ - ngồi trên tòa sen và bàn tay khả ái cầm một cành sen; nữ thần Parvati- vợ thần Shiva, với nhiều thị hiện bao gồm Ambika (người mẹ trìu mến), Gauri (mỹ dung), Shyama (hắc dung), Bhairavi (tuyệt trần), Kumari (trinh trắng), Kali (da đen), Umã, Lalita, Mataji (người mẹ đáng kính), Sahana (tinh khiết), Durga, Bhavani, Shivaradni hoặc Shivaragyei (nữ hoàng của Shiva)... được đồng nhất với nữ thần Po Ina Nagar của người Chăm-pa, tiếp biến thành Thánh Mẫu Thiên Y A Na trong tín ngưỡng người Việt.
Những con đường ngoằn ngoèo của văn hóa trung cận đại thế kỷ Ðàng Trong còn lưu lại một địa vị không hề nhỏ của vai trò người phụ nữ, từ tâm linh đến trần thế. Người ta đồn rằng, trên núi Ông Nhạc Tây Sơn là chỗ bà Thiên Y A Na lui tới, bầy thú rừng là tay chân bộ hạ của bà, chiều chiều kêu inh ỏi trước vầng hào quang sáng chói. Ngoài sông Côn, núi Kiếm, ở đây còn có một dãy núi vĩ đại mang tên núi Bà, xuất phát từ Tây Bắc kéo dài đến Ðông Nam huyện Phù Cát, một quần thể núi đắc địa mà các nhà nghiên cứu thường tìm về với tên gọi Bô Chinh Ðại Sơn (núi lớn lánh chiêng theo nghĩa Hán Việt). Theo thiển ý của chúng tôi, gốc ngọn núi này có liên quan đến tháp Hòn Chuông, một phế tích mà các học giả Pháp khi nghiên cứu tháp Chàm Bình Ðịnh chưa có cơ hội nhắc đến, nơi thờ Pô Ina Nagar.
Bao nhiêu số phận những người con gái dân gian Bình Ðịnh đã góp những nét khắc tạc sinh động cho diện mạo miền đất võ. Về con gái Bình Ðịnh "bỏ roi đi quyền", dân gian muốn trưng tả người phụ nữ miền đất võ đặc trưng giỏi giang hào sảng, vừa thành thạo môn võ binh khí (roi, thương, kiếm...), vừa sở hữu những bài võ bằng tay không (quyền thuật, bao gồm nhu quyền và cương quyền), đúc kết trong câu "roi tiền quyền tiếp", nghĩa là đánh roi trước rồi đi quyền tiếp theo. Dấu vết xa xưa của "nữ hảo hớn" Bình Ðịnh còn để lại trong bài Vè chú Lía, mô tả một người đàn bà tinh thông nhiều môn võ nghệ, vừa đao, vừa kiếm, vừa côn: "Thị Chân mệt đổ mồ hôi/ Song đao múa tít mấy hồi đột xung". Trước khi chàng Lía "kết nghĩa Truông Mây" đã từng thử sức với bà: "Múa đao Lía đỡ tức thì/ Hai bên lâm trận khác chi cọp rồng/ Qua năm mươi hiệp đột xông/ Mẹ Chân múa kiếm vào vòng đột xông".
Bà Trần Thị Quyền người Bồng Sơn được xếp vào loại Liệt nữ. Bà cùng mẹ vào núi hái củi, gặp cọp, người mẹ sợ quá ngất đi, bà ra sức đuổi cọp và vực mẹ về. Một đêm nọ, mẹ ra khỏi nhà, bị cọp rình sẵn vồ ngã, Trần Thị Quyền nghe động nhảy tới huơ dao chém cọp chết tươi. Nhiều trai tráng thán phục, đi dạm hỏi, bà đều từ chối. Hầu mẹ đến lúc mẹ mất, mãn tang, bà mới chịu lấy chồng. Không thiếu những gương mặt phụ nữ như võ sư Lê Thị Quỳnh Hà (roi Thuận Truyền), bà Sáu Sanh (quyền An Thái), bà Tám Cảng (quyền An Vinh)... trong các gia đình võ thuật nổi tiếng Bình Ðịnh. Chuyện ba đấng tu mi đi hỏi, trước tiên phải vượt cửa đấu, bà Tám Cảng đá văng một chàng vào lu nước, một chàng bay khỏi hàng rào, một chàng lọt trong hồ cá là chuyện có thật ở võ đường Hương Mục Ngạt. Nhiều mối lương duyên từ sàn đấu đã điểm mầu sắc cho giai thoại võ lâm.
Người phụ nữ lẫy lừng, tiêu biểu cho hồn xưa sông núi Bình Ðịnh là vị anh hùng cái thế trong phong trào khởi nghĩa nông dân Tây Sơn - đô đốc Bùi Thị Xuân. Bà sở hữu các gia sản lớn là nhan sắc, sức khỏe và sự thông minh, thao lược và nối gót các bậc nữ lưu nước Việt Bà Trưng, Bà Triệu thể hiện tâm huyết, cốt cách một cách tròn vẹn giữa non sông thời tao loạn. Bà là tác giả của bài võ Song Phượng Kiếm, một bài võ kinh điển của võ Bình Ðịnh. Thời trẻ đã từng rút gươm hạ mãnh hổ, cứu một chàng trai, sau này là chồng bà đồng thời là một dũng tướng nhà Tây Sơn - Thiếu phó Trần Quang Diệu. Trong công cuộc chống thù trong giặc ngoài của nhà Tây Sơn, dưới trướng bà còn bốn nữ tướng: Bùi Thị Nhạn, Trần Thị Lan, Nguyễn Thị Dung, Huỳnh Thị Cúc, cùng bà họp thành mỹ danh lưu truyền đất võ - "Tây Sơn Ngũ Phụng Thư". Khi nhà Tây Sơn sụp đổ, dù không thoát khỏi nanh vuốt lưới bẫy của lực lượng đối lập, nhưng những phút cuối cùng của bà đã làm rớm lệ hậu thế đồng thời khắc tạc một chính nghĩa oanh liệt, làm vẻ vang cho một triều đại dù đã bị dìm trong biển máu nhưng còn nguyên vẹn ánh ban mai.
Ngược dòng thời gian lịch sử, ta thấy Bình Ðịnh có những nàng dâu lẫy lừng như Huyền Trân công chúa, đầu thế kỷ XIV, tức hoàng hậu Paramecvari của vua Chế Mân; Ngọc Hân công chúa, cuối thế kỷ XVIII, tức Bắc cung hoàng hậu của vua Quang Trung. Những giai nhân cành vàng lá ngọc đất Thăng Long đã đảm đương những trọng trách và dấu ấn họ không thể mờ phai trong tiến trình đầy giông bão nhưng cũng đầy ân nghĩa của lịch sử, "Má hồng đền nợ quân vương/ Thẳng tay chống đỡ miếu rường là ai". Câu ca dao đã dẫn, hành động mang tính chất biểu tượng "thẳng tay chống đỡ miếu rường" như thế võ cao siêu mà người phụ nữ đã làm được, thân phận cá nhân song hành trong số phận của dân tộc, của đất nước.
Với nữ võ nhân lỗi lạc các thế kỷ Bình Ðịnh, họ là những minh chứng chủ động trong hôn nhân và đời sống, một đặc điểm khó tìm trong ý thức hệ Nho giáo thời phong kiến, phân tỏ một bước phá vỡ các khuôn vàng thước ngọc của xã hội truyền thống. Từ việc chinh phục đất mới, chống chọi với thú dữ đến chính nghĩa của sự quật khởi, đấu tranh với các thế lực áp bức, cuối cùng đến công cuộc chống xâm lược đã đẩy võ thuật lên đỉnh cao. Người phụ nữ "bỏ roi đi quyền" chốn rừng thiêng nước độc, nơi quê mùa thôn dã đã bước ra khỏi lũy tre làng, trở thành anh hùng cứu nước. Nữ tướng Bùi Thị Xuân và những khách má hồng có danh tính trong lịch sử miền đất võ đã khái quát đặc điểm nổi bật của nữ võ nhân Bình Ðịnh là nhan sắc đi kèm với sức mạnh, trong võ thuật ẩn chứa văn tài, trong văn tài có khẩu khí của võ nghiệp: "Lợi kiếm mộ hồn thương/ Vân phi hà nguyệt tẩu/ Phượng dực đáo lâm tiền/ Tư quý bảo Nam bang" (Hồn thương theo gươm báu/ Mây bay nào trăng chạy/ Bìa rừng chim phượng múa/ Bốn mùa giữ nước Nam). Có thể nói, nữ tướng Bùi Thị Xuân là thị hiện trần gian của Nữ Thần Mẹ Xứ Sở của sông núi miền đất võ, xứ sở bi tráng với định danh "sông Côn, núi Kiếm".
* Miền "sông Côn, núi Kiếm" được tạo dựng từ thế võ muôn trùng của người Mẹ. Họ là những người yêu, người vợ biết thức tỉnh nước non và xã hội, bằng cách rót vào tai người mình nâng khăn sửa túi: "Chàng ơi đưa gói thiếp mang/ Ðưa gươm thiếp vác cho chàng đi không". Với người mình yêu, họ là hạt sương mai. Nhưng với kẻ thù, họ là khối hỏa cụ. Ðiều này được tô điểm bằng câu nói đầy phẩm chất danh dự con nhà tướng, khi đô đốc Bùi Thị Xuân khẳng khái trả lời trực diện với Nguyễn Ánh: "Ta đâu có sợ chết mà phải chịu nhục, hạ mình trước một kẻ tiểu nhân đắc thế!".