Nuôi trồng thủy sản gắn với bảo vệ môi trường biển

Có lợi thế về diện tích mặt nước, vùng biển và nhiều hòn đảo lớn nhỏ, cùng hệ sinh thái đa dạng, phong phú, nhiều loài thủy sản có giá trị kinh tế cao…, tỉnh Quảng Ninh đang chủ trương đẩy mạnh phát triển nuôi trồng thủy sản bền vững, song hành với việc bảo vệ môi trường, tránh những tác động xấu từ hoạt động nuôi trồng, khai thác thủy sản.

Mô hình nuôi rong biển với vật liệu và kỹ thuật mới đang được áp dụng rộng rãi trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
Mô hình nuôi rong biển với vật liệu và kỹ thuật mới đang được áp dụng rộng rãi trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.

Mở rộng mô hình vùng nuôi an toàn

Hàu sữa Vân Đồn được đánh giá có chứa rất nhiều protein, kẽm và các vi chất dinh dưỡng khác có lợi cho sức khỏe. Thời gian cho thu hoạch sớm (từ 6-8 tháng), nhu cầu tiêu thụ của thị trường cao cho nên hàu sữa ở Vân Đồn không ngừng được mở rộng về diện tích mặt nước nuôi. Đến nay, đã có gần 3.700 ha mặt nước được sử dụng để nuôi loài nhuyễn thể này, cung cấp ra thị trường khoảng 70.000 tấn hàu thương phẩm/năm.

Với mục tiêu tạo ra nhiều sản phẩm mới từ hàu để đáp ứng nhu cầu trong nước, bảo đảm yếu tố mùa vụ, hướng đến xuất khẩu, nhiều doanh nghiệp, hợp tác xã đã mạnh dạn đổi mới, tăng cường áp dụng các mô hình nuôi hàu sạch theo dự án tiêu chuẩn chất lượng an toàn vùng nuôi và chương trình giám sát chất lượng của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, nhờ đó hoạt động nuôi hàu ở Vân Đồn dần đi vào quy củ, khoa học. Nghề nuôi hàu tạo ra nhiều công ăn việc làm ổn định, đóng góp tích cực đối với sự phát triển kinh tế của địa phương.

Ông Bùi Duy Hùng, thành viên Hợp tác xã nuôi trồng thủy sản Bảo An, huyện Vân Đồn chia sẻ: Với hơn 20 ha mặt nước, chúng tôi thu hoạch khoảng 10 tấn hàu sữa/ngày. Nuôi hàu ở đây thuận lợi về môi trường nước, đặc biệt là thức ăn phù du cho hàu nhiều; do đó hợp tác xã cũng đang muốn mở rộng diện tích nuôi trong thời gian tới để tạo công ăn việc làm, cải thiện thu nhập cho bà con.

Cũng ở Vân Đồn, Công ty TNHH thủy sản Thắng Lợi, một trong những cơ sở có quy mô nuôi cá mú lớn nhất ở huyện đảo này, đầu tư khoảng 300 ô nuôi. Theo ông Nguyễn Văn Quản, phụ trách kỹ thuật chăn nuôi: Thời gian nuôi cá mú dài, để xuất bán phải từ 2-3 năm trở đi, thêm nữa việc đòi hỏi môi trường nước bảo đảm khiến cho kinh phí đầu tư lớn. Tuy vậy, do hàm lượng dinh dưỡng cao và chất lượng thịt thơm ngon nên cá mú có giá trị kinh tế cao. Bên cạnh cá mú, hàu sữa, nhiều doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh còn đầu tư nuôi trồng các loài thủy sản có giá trị và phù hợp khí hậu, thổ nhưỡng địa phương như bào ngư, tôm, cua, ngán, sá sùng, tu hài…

Để bảo đảm nguồn giống phục vụ nuôi trồng, Quảng Ninh đã tập trung thu hút đầu tư, phát triển các cơ sở sản xuất thủy sản, đặc biệt là các doanh nghiệp có tiềm lực về tài chính, khoa học và công nghệ tham gia đầu tư trên địa bàn. Toàn tỉnh hiện có 19 cơ sở sản xuất, ương dưỡng giống, cung ứng khoảng 1,5 tỷ con giống/năm. Nhờ chú trọng đầu tư nuôi trồng thủy sản, năng suất, sản lượng, giá trị ngành thủy sản ngày càng tăng cao. Tổng sản lượng tăng từ 117.115 tấn (năm 2017) lên 137.200 tấn (năm 2020) và năm 2021 đạt 150.000 tấn.

Vươn ra biển lớn, xa bờ

Để tăng cường công tác quản lý và phát triển bền vững nuôi trồng thủy sản trên biển, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Ninh đã ban hành Chỉ thị số 13 ngày 10/8/2021 với định hướng chú trọng phát triển các vùng nuôi biển tập trung công nghiệp. Theo đó, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ cao, cơ cấu lại diện tích, đối tượng nuôi, nâng cao giá trị gia tăng sản phẩm, đáp ứng tiêu chuẩn của các thị trường. Dịch chuyển và giảm diện tích, mật độ nuôi ở vùng biển từ ba hải lý trở vào. Mở rộng diện tích nuôi phù hợp sức tải môi trường trong giới hạn từ ba đến sáu hải lý. Khuyến khích đầu tư nuôi biển ứng dụng công nghệ cao, đặc biệt ở các địa phương: Vân Đồn, Cô Tô, Đầm Hà, Hải Hà…

Theo kế hoạch, chậm nhất đến hết năm 2022, hoàn thành sắp xếp các khu vực nuôi biển tập trung theo quy hoạch. Di dời các cơ sở nuôi trồng ra khỏi vùng lõi vịnh Hạ Long. Xây dựng cơ cấu đàn giống thủy sản phục vụ nuôi biển phù hợp điều kiện thực tế của tỉnh theo hướng tập trung phát triển các đối tượng nuôi chủ lực, các loài có giá trị kinh tế cao. Đồng thời nghiên cứu phương án nhập giống và tiếp nhận chuyển giao công nghệ nuôi các loài cá biển, nhuyễn thể có giá trị kinh tế cao từ các nước, vùng lãnh thổ có điều kiện tự nhiên tương đồng để bổ sung vào cơ cấu đàn giống thủy sản nuôi biển của tỉnh…

Ông Đỗ Đình Minh, Chi cục trưởng Thủy sản (Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Quảng Ninh) cho biết: Để hài hòa giữa phát triển nuôi trồng thủy sản và bảo vệ môi trường biển, Quảng Ninh cũng tích cực thực hiện chuyển đổi toàn bộ phao xốp hiện có trong nuôi trồng thủy sản sang vật liệu thân thiện môi trường, tức vật liệu có các thông số tương đương Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hợp quốc (FAO) quy chuẩn cho HDPE. Đến nay, việc chuyển đổi từ phao xốp sang phao nhựa HDPE đã có nhiều chuyển biến, toàn tỉnh đã chuyển đổi được 38.000 quả phao, chiếm 12% tổng số phao xốp cần chuyển đổi sang phao nhựa HDPE.

Tỉnh cũng đang đẩy nhanh tiến độ khu bảo tồn biển Cô Tô-Đảo Trần, khu bảo tồn vịnh Hạ Long theo các quy hoạch được phê duyệt. Tiếp tục nhân rộng mô hình xây dựng rạn nhân tạo kết hợp trồng phục hồi san hô ở các vùng biển Cô Tô-Đảo Trần, vịnh Hạ Long, vịnh Bái Tử Long. Bảo tồn, kết hợp đặt hàng sản xuất giống thủy sản đặc hữu, quý hiếm, có giá trị kinh tế cao để thả tái tạo nguồn lợi thủy sản tại các vùng biển có điều kiện tự nhiên phù hợp.

Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Quảng Ninh, địa phương hiện có hơn 21.000 ha nuôi trồng thủy sản. Trong đó, 14.506 ô lồng nuôi trồng thủy sản nước mặn; 18.141 ha nuôi nước lợ, còn lại là nuôi nước ngọt. Một số vùng nuôi trồng thủy sản được hình thành như: vùng nuôi tôm gần 9.700 ha; vùng nuôi nhuyễn thể 4.383 ha; vùng nuôi cá song 550 ha; vùng nuôi ghẹ 36 ha; vùng nuôi cua kết hợp cá, tôm, gần 1.855 ha...

Có thể bạn quan tâm

Để tạo nên đội ngũ lao động chất lượng cao, cần đổi mới căn bản công tác đào tạo nghề. (Trong ảnh: Lớp học nghề Kỹ thuật máy lạnh và điều hòa của Trường cao đẳng nghề Bắc khoa Hà Nội). Ảnh: Thành Đạt

Bước chuyển đổi về chất

Lời tòa soạn: Sau hơn 40 năm, hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài đã đạt được nhiều kết quả. Trong bối cảnh cạnh tranh ngày một gay gắt, Việt Nam có những chuyển dịch từ trong chính sách cũng như sự chủ động của doanh nghiệp vì mục tiêu hướng đến sự chuyển đổi về chất trong xuất khẩu lao động.

Cơ quan chức năng Việt Nam họp với đối tác Hàn Quốc nhằm thúc đẩy hợp tác song phương trong lĩnh vực lao động, việc làm.

Đồng bộ giải pháp mở rộng thị trường thu nhập cao

Ông Đặng Đức Thuận, Phó Cục trưởng Quản lý lao động ngoài nước, Bộ Nội vụ, chia sẻ với Nhân Dân cuối tuần, về những giải pháp trong quản lý nhà nước để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực xuất khẩu lao động. Đi đôi với đó là giảm khâu trung gian, chống lừa đảo, bảo vệ người lao động.

Các hình thái thời tiết ngày càng cực đoan buộc các đô thị phải sớm thay đổi cách ứng phó, tăng khả năng chống chịu. (Ảnh THÀNH ĐẠT)

Quy hoạch đô thị và sức đề kháng với thiên tai

Liên tiếp những đợt thiên tai bất thường xảy ra trong hai tháng qua đã khiến nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước gánh chịu những hậu quả khôn lường, và làm bộc lộ nhiều bất cập, đặc biệt là hiện tượng ngập lụt tại các đô thị lớn.

Ứng phó ngập lụt đô thị không chỉ là nhiệm vụ kỹ thuật, mà còn là thước đo năng lực quản trị và tầm nhìn phát triển quốc gia. (Ảnh: Xuân Ngọc)

Chuyển đổi tư duy để chủ động thích ứng

Ngập lụt đô thị đã và đang trở thành vấn đề nổi cộm, kéo dài và khó giải quyết ở hầu hết các thành phố lớn của Việt Nam. Thời gian qua, dù hàng loạt dự án chống ngập được triển khai với vốn đầu tư lớn, nhưng tình trạng nước dâng ngập đường, nhà cửa, khiến giao thông tê liệt và đời sống người dân bị đảo lộn... vẫn tiếp diễn.

Ao Hoàng Giáp trong ngõ 99 Định Công Hạ (phường Định Công, Hà Nội) bị lấn chiếm, dựng nhà tạm và tập kết vật liệu xây dựng. (Ảnh VĂN HỌC)

Khi mặt nước vẫn đang bị thu hẹp

Tình trạng lấn chiếm, lấp ao, hồ, sông, kênh dẫn nước trái phép, không chỉ gây thất thoát tài sản công, mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng thoát nước, thấm nước của Thủ đô Hà Nội.

Công viên trữ nước Chulalongkorn Centenary ở trung tâm thủ đô Bangkok (Thái Lan) có khả năng lưu trữ hơn 1 triệu lít nước nhờ hệ thống hồ chứa liên hoàn. (Nguồn QUYHOACHDOTHI.VN)

Gợi mở từ thế giới

Trải qua hàng thập kỷ gồng mình chống chịu các hiện tượng thời tiết cực đoan, nhiều mô hình đô thị tích hợp khả năng chống chịu biến đổi khi hậu được triển khai ở các quốc gia như: Hà Lan, Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc hay Đức là minh chứng tiêu biểu cho tư duy "sống chung với nước" bằng khoa học, quy hoạch và quản trị hiện đại.

Trao quà cứu trợ đến với người dân vùng lũ tỉnh Đắk Lắk. (Ảnh TTXVN)

Cần chính sách đặc biệt

Hơn một tuần qua, sau đợt mưa lũ lịch sử, các tỉnh Lâm Đồng, Khánh Hòa, Đắk Lắk, Gia Lai vẫn oằn mình nỗ lực vượt qua những tổn thất nặng nề do thiên tai.

Công nhân EVNHANOI sử dụng máy đo nhiệt kiểm tra tình trạng thiết bị điện tại trạm biến áp vận hành không người trực. Ảnh: Thành Đạt

Từ ứng dụng tới làm chủ công nghệ chiến lược

Xuất phát từ chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, và trên tinh thần cụ thể hóa Nghị quyết số 57-NQ/TW; Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, Việt Nam xác định tập trung nguồn lực phát triển các công nghệ chiến lược.

Quang cảnh Hội nghị Cấp cao ASEAN+3 lần thứ 28. (Ảnh VGP/Nhật Bắc)

Cải thiện môi trường kinh doanh nhờ hiện đại hóa quản lý

Một số ngành nghề như kinh doanh "tạm nhập, tái xuất" thực phẩm đông lạnh, xuất khẩu gạo hay dịch vụ kế toán… vốn được xác định là ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Doanh nghiệp hoạt động trong các ngành nghề này thường khá chật vật, chạy đôn chạy đáo để lo hoàn thiện hồ sơ xin giấy phép kinh doanh.

Phó Tổng Giám đốc Qualcomm Gerardo Giaretta nhận định, kỹ sư Việt Nam có trình độ đẳng cấp thế giới.

Cú huých đủ mạnh

Một doanh nghiệp Việt Nam lọt vào báo cáo của Gartner, hệ quy chiếu khắt khe bậc nhất thế giới, có thể chỉ là một lát cắt nhỏ của ngành công nghệ. Nhưng đằng sau đó là tương lai đầy hứa hẹn: Người Việt đủ khả năng bước vào sân chơi công nghệ lõi, song cần có một cú huých đủ mạnh.

Công nhân EVNHANOI kiểm tra vận hành Hệ thống thiết bị đóng cắt hợp bộ. Ảnh: Thành Đạt

Hợp tác ba bên trong phát huy giá trị cốt lõi

Từ một hệ thống chủ yếu vận hành bằng thiết bị nhập khẩu, ngành điện Việt Nam đang bước vào giai đoạn vươn mình, nỗ lực làm chủ các công nghệ lõi, để không bị tụt lại trong xu thế chuyển dịch năng lượng toàn cầu.

Kiểm tra thông số thiết bị điện tại trạm biến áp. (Ảnh Thành Đạt)

Nền tảng quản lý, vận hành tối ưu lưới điện

Với yêu cầu ngày càng cao về chất lượng và độ tin cậy cung cấp điện, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) không ngừng cải thiện nền tảng hạ tầng, ứng dụng các giải pháp công nghệ hiện đại. Trong đó, việc làm chủ nhiều bộ khung công nghệ cốt lõi giúp quá trình quản lý và vận hành lưới điện ngày càng hiệu quả.

Tòa nhà PECC2 Innovation Hub tại Thành phố Hồ Chí Minh đã vận hành BESS công suất 750 kW.

BESS - Gỡ nút thắt cho năng lượng tái tạo

Những năm gần đây, Việt Nam đã vươn lên nhóm quốc gia tăng trưởng năng lượng tái tạo nhanh nhất khu vực. Tuy nhiên, tình trạng nguồn điện sạch vẫn bị bỏ phí cần được ngành điện nhận diện và tìm lời giải.

Trung tâm Điều khiển số tại Trung tâm Điều độ Hệ thống điện Thành phố Hà Nội được xây dựng trên nền tảng hệ thống SCADA. (Ảnh Thành Đạt)

Đo độ phát triển công nghệ, đếm lợi thế cạnh tranh

Công nghệ lõi là những công nghệ nền tảng, có khả năng chi phối chuỗi sản xuất công nghiệp, tạo ra hệ sinh thái sản phẩm, dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Làm chủ công nghệ lõi đồng nghĩa với việc nắm quyền thiết kế, tích hợp và sản xuất hệ thống, từ đó giảm phụ thuộc bên ngoài và nâng cao năng lực tự chủ công nghệ.

Đoàn đánh giá ngoài thuộc Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long tiến hành kiểm định chất lượng một số chương trình đào tạo của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội).

Triết lý giáo dục trong thời đại thời AI

Triết lý giáo dục là nền tảng định hướng cho bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục. Nó không chỉ là khẩu hiệu hay niềm tin chung, mà là hệ quy chiếu giá trị chi phối mọi hoạt động quản lý, giảng dạy và học tập.

Đoàn chuyên gia của Hiệp hội Kiểm định các Trường đại học Nhật Bản kiểm định chất lượng tại Trường đại học Việt Nhật. (Ảnh VJU)

Phép thử với năng lực tự đổi mới

Nếu như kiểm định chất lượng bên ngoài là "tấm gương phản chiếu" khách quan, thì bảo đảm chất lượng bên trong chính là "nội lực" duy trì và phát triển bền vững của chính mỗi trường đại học.

GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Chuyển hóa từ công cụ thành động lực

Đánh giá hiện trạng công tác bảo đảm chất lượng giáo dục đại học và nêu định hướng một số giải pháp là nội dung cuộc phỏng vấn của phóng viên Nhân Dân cuối tuần với GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

PGS, TS Lê Văn Hảo.

Lan tỏa văn hóa chất lượng

Theo PGS, TS Lê Văn Hảo, Ủy viên Hội đồng Kiểm định chất lượng giáo dục của Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long và Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Sài Gòn, các cơ sở giáo dục đại học cần có chiến lược và giải pháp cụ thể để hình thành và phát triển bền vững văn hóa chất lượng của nhà trường.

Sinh viên học tập tại Thư viện Trường đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh. (Nguồn: Website nhà trường)

Tâm tư "người trong cuộc"

Những năm qua, công tác kiểm định chất lượng giáo dục đại học đã được triển khai đồng bộ, có chiều sâu và đạt kết quả tích cực. Tuy nhiên, công tác tự đánh giá và bảo đảm chất lượng giáo dục đại học vẫn còn nhiều khó khăn.

Thiết kế: Khiếu Minh; ảnh: Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam và Thành Đạt

Tinh thần khai phóng và khát vọng sáng tạo

Tháng 11/1925, khóa khai giảng đầu tiên của ngôi trường Mỹ thuật Đông Dương, tiền thân của Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, đã đặt dấu mốc đặc biệt mang tính bước ngoặt cho một cuộc cách mạng thẩm mỹ lớn trong xã hội Việt Nam đương thời.  

Lê Anh Vân, Chiến lũy, sơn dầu, 100 x 129,5cm, 1984. trong Sưu tập của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

Chủ động thay đổi để phát triển

Nhân Dân cuối tuần ghi nhận ý kiến của một số nhà giáo, nghệ sĩ, nhà sưu tập trong và ngoài nước về sự chuyển dịch của vị thế mỹ thuật Việt Nam trong đời sống văn hóa tinh thần của người Việt Nam nói riêng, trên bình diện quốc tế nói chung. 

Tô Ngọc Vân, Hai thiếu nữ và em bé, sơn dầu, 100,2 x 75cm, sáng tác năm 1944, trong danh mục Bảo vật quốc gia, thuộc sưu tập của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

Những cơn sóng trào của khát vọng sáng tạo

Việc thành lập và nhanh chóng đi vào hoạt động của Trường Mỹ thuật Đông Dương đã góp phần quan trọng tạo nên bước ngoặt nhận thức của một lớp người Việt Nam về tính cá nhân và giá trị của sáng tạo cá nhân trong xã hội.

Triển lãm các bài nghiên cứu hình hoạ của nhiều thế hệ sinh viên nhà trường, tháng 9/2025, thu hút sự quan tâm của đông đảo giới chuyên môn. Ảnh: Mai Loan

Dưỡng chất cho mầm xanh nghệ thuật

Suốt hành trình 100 năm qua, Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, tiền thân là Trường Mỹ thuật Đông Dương, dù trải qua nhiều biến động lịch sử lớn lao nhưng luôn giữ vững mục tiêu đào tạo nghệ sĩ-người sáng tạo trong lĩnh vực mỹ thuật.

Đại diện hậu duệ danh hoạ Nguyễn Phan Chánh trao những suất học bổng đầu tiên của Quỹ mang tên ông cho sinh viên Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, tháng 10/2025.

Tự tin vượt qua nhiều giới hạn

Đông Nam Á vốn luôn được xem là một vùng ngoại vi của nghệ thuật đương đại thế giới, cho dù trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày một sâu rộng. Những định chế nghệ thuật lớn vẫn “cư ngụ” ở châu Âu và Bắc Mỹ.