Trong gần hai thập kỷ qua, tốc độ đô thị hóa của Việt Nam diễn ra nhanh và mạnh mẽ. Tỷ lệ dân số đô thị tăng nhanh kéo theo những sức ép ngày càng lớn về không gian sống, môi trường, giao thông, hạ tầng kỹ thuật và chất lượng đời sống của cư dân.
Nhiều đô thị lớn đang đối mặt với sự thu hẹp không gian xanh, ô nhiễm không khí tăng cao và tác động rõ rệt của biến đổi khí hậu. Để giải quyết những vấn đề này, nông nghiệp đô thị trở thành một giải pháp tiềm năng giúp nâng cao chất lượng sống và bảo vệ môi trường. Phát triển nông nghiệp đô thị không chỉ cải thiện nguồn thực phẩm mà còn tạo ra không gian xanh cho cư dân.
Ông Phạm Ngọc Tuấn, Giám đốc Công ty cổ phần Bình Điền MeKong, cho hay, các thành phố lớn của Việt Nam như Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Nẵng hay Cần Thơ đang đối mặt với nhiều thách thức như không gian xanh bị thu hẹp, ô nhiễm môi trường gia tăng và tác động rõ rệt của biến đổi khí hậu.
Những vấn đề này đòi hỏi các đô thị phải tìm kiếm một mô hình phát triển mới hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường, giữa nhu cầu sống xanh của cư dân và thực tế quỹ đất ngày càng hạn chế.
Trong bối cảnh đó, nông nghiệp đô thị không chỉ đơn thuần là sản xuất nông nghiệp trong lòng thành phố, mà còn là phương thức kiến tạo không gian xanh, nâng cao chất lượng sống, mở ra những giá trị kinh tế mới và tạo sự kết nối giữa con người, thiên nhiên và công nghệ.
Đây là một giải pháp phát triển bền vững mà nhiều đô thị tiên tiến trên thế giới đã và đang triển khai thành công.
Cũng với quan điểm này, ông Lại Thành Nam, Chủ tịch Liên hiệp Khoa học công nghệ xanh Việt Nam chia sẻ, Việt Nam đang đô thị hóa nhanh, với tỷ lệ dân số đô thị dự kiến đạt hơn 50% vào năm 2030. Người dân thành phố ngày càng quan tâm đến thực phẩm sạch, an toàn, có nguồn gốc rõ ràng, tạo ra thị trường tiềm năng cho nông nghiệp đô thị.
Các khu vực ven đô, sân thượng, ban công, đất trống trong đô thị có thể được chuyển đổi thành vườn rau, vườn hoa hoặc trang trại nhỏ. Việc này sẽ tạo ra việc làm tại chỗ, giảm chi phí vận chuyển thực phẩm; đồng thời tăng khả năng tự cung cấp thực phẩm, góp phần cải thiện môi trường sống và sức khỏe cộng đồng.
Cũng theo các chuyên gia, nông nghiệp đô thị góp phần kiến tạo ra "lá phổi xanh" và tăng cường khả năng phục hồi cho đô thị; cải thiện chất lượng không khí và giảm hiệu ứng đảo nhiệt.
Cây xanh trong các khu vườn đô thị, vườn trên mái nhà, vườn tường giúp hấp thụ tăng CO2, giảm nhiệt độ cục bộ… và góp phần giảm tải cho hệ thống thoát nước của các thành phố trong những trận mưa lớn.
Tuy nhiên, trên thực tế vẫn còn những điểm nghẽn hiện hữu như chính sách chưa hoàn thiện, công nghệ cao chưa dễ tiếp cận, kết nối cung-cầu hạn chế và thiếu hệ sinh thái giữa quản lý, khoa học, doanh nghiệp và người dân, khiến nhiều mô hình kém bền vững. Ngoài ra, chi phí đầu tư còn lớn đối với nhiều hộ dân và hợp tác xã.
Góc độ nhà khoa học, trao đổi tại hội thảo, Tiến sĩ Nguyễn Đăng Nghĩa, chuyên gia nông nghiệp, cho rằng chính sách về nông nghiệp đô thị có nhưng chưa đi vào thực tiễn, nông dân vẫn còn tự bơi. Đặc biệt, chúng ta chưa có trung tâm trọng tài uy tín để đánh giá, "bảo kê" cho sản phẩm nông nghiệp an toàn, sạch, những mô hình hay.
Theo Tiến sĩ Nghĩa, nếu chính sách tốt, nông nghiệp đô thị mới có động lực phát triển tốt. Ông cũng so sánh hiện nông nghiệp đô thị trên thế giới đã là xây dựng vườn trong thành phố, thành phố trong rừng. Do đó một mảng xanh dù rất nhỏ cũng đáng quý vì giảm phát thải, cải tạo không khí, thậm chí mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Tại Hội thảo, các chuyên gia cũng đề xuất cơ quan chức năng cần ban hành chính sách hỗ trợ cây giống, hướng dẫn kỹ thuật, hỗ trợ chuyển giao công nghệ cho các hộ dân, hợp tác xã; đồng thời ban hành quy định bắt buộc tỷ lệ cây xanh trong các dự án xây dựng mới.