Nguyễn Tư Nghiêm - nhân vật đồ sộ và sâu sắc của hội họa

"Cánh chim hồng hộc đã mất dạng trong cao xanh ở cuối trời để lại trên đó đường bay bất tận huyền diệu và lòng ngưỡng mộ”. Một tứ thơ bất chợt về sự ra đi (hay trở về) của Nguyễn Tư Nghiêm. Thi nhân, nghệ sĩ có mấy loại thần họa, thánh họa, tâm họa và ngôn họa thì ông thuộc hạng thứ nhất chăng.

Nguyễn Tư Nghiêm - nhân vật đồ sộ và sâu sắc của hội họa

Xuất thân từ gia đình trí thức khoa bảng, theo cách mạng từ rất trẻ và làm nghệ sĩ thuần túy triệt để đến cùng, (đời) hội họa của Nguyễn Tư Nghiêm đầy đủ hài hòa cả ba phẩm chất ấy. Mỹ thuật Việt Nam thường mang tiếng ít chất triết, trí tuệ, nặng cảm và tình cho đến khi gặp “tranh Nghiêm”. Có thể không nặng nho học như Nguyễn Phan Chánh, không giỏi Tây học như Tô Ngọc Vân, nhưng tranh ông, con người ông tự nhiên hội đủ hai thứ học ấy, mà chúng không phải đối đầu, kết hôn hay sàng lọc lẫn nhau. Cảm thức tâm linh tam giáo bàng bạc trong miên man các bức tranh sơn mài, giấy dó, càng làm chất trí tuệ nhuốm mầu huyền ảo, có thể khiến người ta sùng kính khi thưởng thức kiểu như các tranh thờ đã thành cổ điển của dân gian.

Phong cách tân tả chân và ấn tượng của Trường Mỹ thuật Đông Dương, mà ông là sinh viên giỏi từ năm 1941 đến 1945, được khắc phục khá cực đoan ngay trong những tác phẩm hiện thực xã hội chủ nghĩa đầu tiên của ông, mà Con nghé quả thực và Giao thừa bên Hồ Gươm là đỉnh cao khó với tới. Liền sau đó từ những năm 1960 đến 1970 ông tự khai hoang, tạo dựng một lãnh địa nghệ thuật rộng lớn với loạt tranh theo các chủ đề Trẻ em chơi - Điệu múa cổ - Thánh Gióng - Kiều và Những con giống trên chất liệu sơn mài và giấy dó. Dấu ấn hiện đại chủ nghĩa cụ thể là lập thể và trừu tượng rõ rệt nhất. Nhưng rõ hơn, sâu hơn là dấu triện vàng son và dung dị của nghệ thuật Đông Sơn, nghệ thuật Đình Chùa Làng và nghệ thuật dân gian từ Bắc Bộ đến Tây Nguyên. Họa sĩ đi con đường hiện đại hóa của hầu hết các danh họa hiện đại là: trở về càng sâu càng xa càng tốt với quá khứ, kỷ niệm, di sản biểu hiện thị giác của dân tộc, cộng đồng, miền đất, khí hậu, tâm và thần địa phương…

Vấn đề là sự trở về đó phải được nội giới hóa, để nó từ trong người mình mà đi ra, chứ không phải đứng ngoài mà nhìn vào dò xét, đứng trong hiện tại mà nuối tiếc quá vãng. Tính chất cách mạng trong hội họa Nguyễn Tư Nghiêm hấp dẫn ít nhất ba thế hệ họa sĩ Việt Nam. Vẽ giống ông thì lộ ngay, bắt chước ông rất khó, nhưng ảnh hưởng từ ông rất khó tránh. Trẻ em chơi - bất tận các phương án khác nhau với vô số nhân vật khác nhau, nhưng không ai để ý chúng là ai, chơi ở đâu, chơi cái gì (như phần lớn tranh tả chân đèm đẹp cùng thời). Nó là một biểu tượng hạnh phúc bình dị, sự tự do và hồn nhiên, là những thứ người lớn đều khao khát. Những người trong chiến tranh càng khao khát hơn.

Điệu múa cổ không là giấc mộng thiên thai như Nguyễn Gia Trí, liêu trai như Lê Phổ hay duyên dáng điệu đà kiểu Tô Ngọc Vân. Nó là điệu múa của đường nét, mầu sắc của các nàng tiên - thôn nữ, tức các cô gái biến thành ngọc nữ trong hội hè và trên ban thờ. Nó thành biểu tượng khái quát của cái đẹp như Thánh Gióng vung roi trên tuấn mã trong không gian cổ kính Đông Sơn, là biểu tượng của tính anh hùng, là bản hùng ca chiến thắng. Kiều và nhất là các con giống từ con thật như chó, dê tới con rồng huyền hoặc, đều biểu trưng của thân phận, số phận. Các con giống là vòng luân chuyển bất tận của các thế lực tự nhiên xã hội, mà chi phối mỗi người như siêu nhiên. “Tranh Nghiêm” hầu như luôn tượng trưng, khiến mỗi loại/loạt có tính thể loại, mà không thể xếp vào thể loại vốn có nào trong hội họa (như lịch sử, tĩnh vật, sinh hoạt, phong cảnh…).

Vượt sang bên kia đường viền của sự mô tả, kể chuyện hay trình bày một nhân vật, một sự kiện, một tình huống hay một nét tâm lý, tính cách cụ thể hội họa của ông, tự mỗi tác phẩm là một trạng thái, một quá trình mà người xem tham dự. Bức tranh không phải là đại diện, mô phỏng hay tấm gương phản ánh cái gì. Nó là một vật được sáng tạo ra như một cái cây, một sinh vật có sự sống của tự nó. Điều này khiến nghệ thuật của ông có thể được xếp gọn trong triết lý của chủ nghĩa hiện đại. Tính Việt Nam tiêu biểu trong tranh của ông đã vượt qua biên giới địa lý, trở thành quốc tế đúng nghĩa.

Ở tầm cỡ không biên giới ấy, họa sĩ Nguyễn Tư Nghiêm hiện ra như một họa sĩ độc đáo, với ngôn ngữ nghệ thuật không thể lẫn. Đó là sự độc đáo về mầu sắc: vừa vẽ ra đã thành cổ kính, rất thân quen như cánh sen, cổ vịt, hoa hòe, huyết dụ, cánh chả, bã trầu, thanh thiên… trong dân ca; vừa lộng lẫy hoàng cung, uy nghi đình chùa tháp. Hệ thống nét cũng độc nhất vô nhị, với các nét thẳng và cong, ngắn và dài luôn đổi hướng, luồn lách, chồng lấp hô ứng lẫn nhau, như các bè nhạc cụ của dàn giao hưởng. Và cái hấp dẫn nhất là kết cấu tác phẩm luôn chặt chẽ, để biến hóa, khiến trong hàng trăm bức tranh cùng một loại, một chủ đề, một mô-típ, mỗi bức đều riêng biệt, khác nhau. Có lẽ trong lịch sử ngôn ngữ nghệ thuật Việt Nam thế kỷ 20, Nguyễn Tư Nghiêm là nhân vật đồ sộ và sâu sắc sẽ còn được nghiên cứu và viện dẫn lâu dài nhất.

Suốt cuộc đời dài gần trọn một thế kỷ, Nguyễn Tư Nghiêm luôn vẽ, chỉ vẽ với nội lực phi thường. Ông hầu như không xuất hiện, không tuyên ngôn, không vướng bận gia đình, mà sống với tranh như thiền sư với vườn thiền, như bậc cao tăng với lâm tuyền. Sự chăm sóc đối với con người và di sản nghệ thuật Nguyễn Tư Nghiêm của bà Thu Giang (con gái người bạn văn chương Nguyễn Tuân của ông) là món quà tặng, niềm an ủi đáng quý để họa sĩ thanh thản “hành đạo” đến tận những ngày giờ cuối. Ông chỉ ngự trong “lãnh địa” của mình, nhưng xã hội và không gian nghệ thuật của cả ba trào lưu Mỹ thuật Đông Dương, Hiện thực xã hội chủ nghĩa và Đổi mới đều luôn chịu tác động từ mọi hành vi nhất cử nhất động, mỗi thành tựu và thông điệp, quan niệm nghệ thuật qua mỗi loạt tranh của họa sĩ. Di sản của Nguyễn Tư Nghiêm là con đường xa với những đỉnh cao mà phong cảnh luôn đổi thay ngoạn mục. Báu vật của thời gian.

Kính ngưỡng hương hồn danh họa đã trở về ngôi!

Có thể bạn quan tâm

Một chương trình biểu diễn nghệ thuật quy mô tại Sa Pa. (Ảnh LỮ MAI)

Điểm đến vùng cao và nghệ thuật thực cảnh

Sa Pa (Lào Cai) vừa biểu diễn thành công hai chương trình nghệ thuật thực cảnh quy mô lớn với sự tham gia của đông đảo nhân dân các dân tộc cùng diễn viên chuyên nghiệp, bồi đắp thêm hệ sinh thái du lịch văn hóa cộng đồng ở vùng cao.

Các bạn trẻ hào hứng xem phim "Tổ quốc trong tim: The concert film"

Lan tỏa mạnh mẽ tinh thần yêu nước trong các thế hệ

Tổ quốc trong tim: The Concert Film" đã chính thức phát hành rộng rãi, tạo nên sức hút mạnh mẽ đối với công chúng. Tác phẩm điện ảnh âm nhạc này chinh phục khán giả không chỉ bằng chất lượng nghệ thuật, mà còn bằng khả năng truyền tải cảm xúc thiêng liêng về Tổ quốc, khơi dậy sâu sắc niềm tự hào và tình yêu đất nước.

Liên hoan phim Nhật Bản tại Việt Nam 2025

Liên hoan phim Nhật Bản tại Việt Nam 2025

Theo thông tin từ Quỹ Giao lưu Quốc tế Nhật Bản (The Japan Foundation) tại Việt Nam, Liên hoan phim Nhật Bản 2025 sẽ diễn ra từ ngày 12/12/2025 đến 25/1/2026 tại Hà Nội, Hải Phòng, Thành phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng.

Bìa tác phẩm "Huyền thoại thổ thần".

"Huyền thoại thổ thần" - dấu ấn mới của văn học fantasy Việt Nam

Công ty Cổ phần Sách điện tử Waka phối hợp Appota vừa giới thiệu tới bạn đọc tiểu thuyết "Huyền thoại thổ thần" của tác giả Nguyễn Thái Duy. Đây là một trong những dự án fantasy hiếm hoi của văn học Việt được xây dựng như một "vũ trụ" độc lập, kết hợp thần thoại, thổ dân và công nghệ ở quy mô lớn.

Tọa đàm góp phần thúc đẩy giao lưu văn hóa, củng cố quan hệ hợp tác Việt-Pháp, đồng thời khẳng định tiềm năng phát triển mạnh mẽ của điện ảnh Việt Nam trong giai đoạn mới.

Thúc đẩy hợp tác và đầu tư điện ảnh Việt Nam-Pháp

Tại tọa đàm “Điện ảnh Việt Nam và Pháp: Tiềm năng và cơ hội hợp tác” ở Paris ngày 4/12, các nhà quản lý điện ảnh cũng như nhà sản xuất và nghệ sĩ hai nước đã trao đổi về chiến lược phát triển và hội nhập quốc tế của điện ảnh Việt Nam trong bối cảnh mới và triển vọng hợp tác để phục vụ công chúng, đi tranh giải quốc tế.

Các đại biểu tham quan triển lãm.

Kỷ niệm 65 năm ngoại giao Việt Nam-Cuba: Khai mạc triển lãm “Nghĩa tình thủy chung”

Triển lãm “Nghĩa tình thủy chung” kỷ niệm 65 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Cuba là sự kiện ý nghĩa, là lời tri ân sâu sắc dành cho mối quan hệ lịch sử giữa hai dân tộc, mối quan hệ đã được hun đúc qua nhiều thế hệ và luôn được gìn giữ như một báu vật vô giá, trở thành tấm gương sáng cho tình đoàn kết quốc tế.

Cảnh trong phim "Nhà hai chủ". (Ảnh: Galaxy Studio)

Phim “Nhà hai chủ” dự kiến ra rạp ngày 26/12

“Nhà hai chủ” là bộ phim do bộ đôi đạo diễn Trần Duy Linh và Phạm Trung Hiếu thực hiện, dựa trên quan niệm dân gian về xây nhà, đã chính thức ra mắt trailer và dự kiến ra rạp vào ngày 26/12 tới.

Tượng voi đá được phụng thờ trong Đền A Sào.

Theo dấu voi chiến về “Đệ nhị sinh từ A Sào”

Lưu giữ dấu tích về thân thế và sự nghiệp của anh hùng dân tộc Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn, khu di tích lịch sử-văn hóa quốc gia Đình, Đền, Bến Tượng A Sào còn gắn với câu chuyện cảm động về chú voi chiến trung nghĩa và câu ca truyền tụng “Đệ nhất sinh từ Kiếp Bạc-Đệ nhị sinh từ A Sào”.

Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội phát động Tuần lễ hưởng ứng học tập suốt đời năm 2024. (Ảnh: QUỲNH NGUYỄN)

Thủ đô Hà Nội được UNESCO công nhận là thành viên “Mạng lưới các Thành phố học tập toàn cầu”

Sau quá trình xét duyệt hồ sơ với nhiều tiêu chí rất cao, ngày 4/12, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) đã chính thức công bố 72 thành phố của 46 quốc gia được công nhận là thành viên Mạng lưới các Thành phố học tập toàn cầu của UNESCO, trong đó có Thủ đô Hà Nội của Việt Nam.

Rie Qudan ký tặng sách cho độc giả Hà Nội.

Tác giả Nhật Bản Rie Qudan: AI và hành trình sáng tác văn học

Rie Qudan là một trong những tác giả trẻ của Nhật Bản sử dụng AI trong công việc sáng tác của mình. Với cô, AI có nhiều tác dụng hữu ích trong nhiều công đoạn của người viết văn, nhưng không thể nào thay thế được khát vọng viết, cảm xúc và những rung động từ trái tim con người.