Nâng cao chuỗi giá trị sản xuất lâm nghiệp

Ngày 1/4/2021, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 523/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược phát triển lâm nghiệp Việt Nam giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050. Sau 3 năm thực hiện, ngành lâm nghiệp cả nước đã đạt nhiều kết quả tích cực, nâng cao chuỗi giá trị sản xuất, góp phần phát triển kinh tế, xã hội, bảo vệ môi trường bền vững.
Sản xuất gỗ rừng trồng xuất khẩu tại Công ty TNHH Hoàng Minh (Bình Dương).
Sản xuất gỗ rừng trồng xuất khẩu tại Công ty TNHH Hoàng Minh (Bình Dương).

Đẩy mạnh kinh tế lâm nghiệp

Theo Cục Lâm nghiệp (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), tốc độ tăng giá trị lĩnh vực lâm nghiệp giai đoạn 2021-2023 đạt bình quân 4,6%/năm. Trong đó, giá trị xuất khẩu gỗ và lâm sản đạt bình quân 15,8 tỷ USD/năm. Trong 3 năm, trồng rừng tập trung đạt 260.400 ha/năm, bằng 113% kế hoạch đến năm 2025, 76% kế hoạch đến năm 2030, trong đó, rừng đặc dụng, phòng hộ đạt 8.700 ha/năm, rừng sản xuất đạt 251.700 ha/năm.

Sản lượng khai thác gỗ đã đáp ứng cơ bản nhu cầu nguyên liệu cho ngành công nghiệp chế biến gỗ và thị trường lâm sản. Để thích nghi với môi trường kinh doanh mới của thế giới, ngoài việc tập trung đẩy mạnh trồng rừng gỗ lớn, có chất lượng cao, ngành lâm nghiệp đã đẩy mạnh diện tích rừng được cấp chứng chỉ quản lý rừng bền vững.

Đến hết năm 2023, tổng số chủ rừng là tổ chức đã xây dựng, phê duyệt phương án quản lý rừng bền vững trong cả nước đạt 70% về số lượng chủ rừng và 80% về diện tích. Về diện tích được cấp chứng chỉ quản lý rừng bền vững, đến nay, cả nước có 465.000 ha rừng được cấp chứng chỉ quản lý. Thu dịch vụ môi trường rừng bình quân của cả nước đạt 3.650 tỷ đồng/ năm; tốc độ tăng hằng năm đạt 17%.

Phó Cục trưởng Lâm nghiệp Triệu Văn Lực đánh giá, ngành lâm nghiệp đang làm tốt việc phát triển kinh tế rừng đi đôi với giải quyết việc làm cho người dân và góp phần bảo vệ hiệu quả các mục tiêu xã hội, môi trường đề ra.

Đến nay, diện tích rừng giao cho các chủ rừng là đơn vị, tổ chức, hộ gia đình, cộng đồng dân cư là 11,367 triệu ha, chiếm 77% diện tích có rừng, trong đó diện tích rừng đã giao cho các hộ gia đình cá nhân đang quản lý 3,18 triệu ha (chiếm 21,52% diện tích rừng), cộng đồng dân cư đang quản lý 0,99 triệu ha (chiếm 6,75% diện tích rừng).

Nhiều hộ gia đình đã triển khai các mô hình phát triển lâm nghiệp, trồng rừng gỗ lớn, phát triển lâm sản ngoài gỗ, mô hình nông lâm kết hợp có giá trị.

Hằng năm, các chủ rừng đã thực hiện khoán bảo vệ rừng cho các hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư với diện tích hơn 6,2 triệu ha/năm, góp phần tạo thu nhập cho các hộ gia đình, cải thiện sinh kế cho người dân tham gia bảo vệ và phát triển rừng.

Tiếp tục triển khai hiệu quả chính sách bảo vệ và phát triển rừng gắn với chính sách giảm nghèo nhanh, bền vững và hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, thông qua thực hiện các chính sách hỗ trợ bảo vệ rừng, chính sách hỗ trợ gạo cho các hộ gia đình tham gia bảo vệ rừng.

Ngành lâm nghiệp đã tạo việc làm cho các hộ gia đình, cá nhân tham gia trực tiếp thực hiện bảo vệ rừng cho hơn 5 triệu lao động, góp phần tạo việc làm, cải thiện sinh kế cho khoảng 25 triệu người dân sống gắn bó với rừng.

Thứ trưởng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nguyễn Quốc Trị khẳng định, một trong những điểm nhấn của việc phát huy đa giá trị rừng thời gian qua là việc triển khai hiệu quả dịch vụ hấp thụ và lưu giữ các-bon của rừng.

Ngành lâm nghiệp đã triển khai hiệu quả Nghị định số 107/2022/NĐ-CP ngày 28/12/2022 của Chính phủ về thí điểm chuyển nhượng kết quả giảm phát thải và quản lý tài chính thỏa thuận chi trả giảm phát thải vùng Bắc Trung Bộ (ERPA); xây dựng thỏa thuận mua bán giảm phát thải vùng Tây Nguyên và Nam Trung Bộ; hoàn thành hồ sơ đăng ký cấp tín chỉ các-bon rừng vùng Tây Nguyên và Nam Trung Bộ.

Tiếp tục triển khai hiệu quả các dịch vụ kinh doanh du lịch sinh thái; cho thuê môi trường rừng để kinh doanh, nuôi trồng, phát triển dược liệu... Tuy nhiên, cũng như một số ngành kinh tế khác, ngành lâm nghiệp đang đứng trước những cơ hội và thách thức.

Đó là, các quy định mới về xuất khẩu đồ gỗ đến thị trường Liên minh châu Âu (EU), Mỹ, Nhật Bản và các nước và vùng lãnh thổ giàu tiềm năng buộc các nhà sản xuất trong nước phải thay đổi tư duy sản xuất, chất lượng và nguồn gốc minh bạch, hợp pháp, phù hợp với thông lệ quốc tế của các sản phẩm lâm nghiệp.

Trong nước, có những thay đổi trong hệ thống pháp luật như Luật Đất đai mới, các nghị định, văn bản pháp luật liên quan đặt ra những chế định mới, một mặt thúc đẩy sản xuất lâm nghiệp đúng quy định quốc tế, một mặt buộc các doanh nghiệp chế biến lâm sản, người trồng rừng phải tuân thủ chặt chẽ để nâng cao năng lực cạnh tranh cho các sản phẩm.

Đổi mới mô hình tăng trưởng

Nhìn nhận về những bất cập, hạn chế sau 3 năm triển khai Quyết định số 523/QĐ-TTg, các nhà quản lý ngành lâm nghiệp cho rằng, đến nay, tại nhiều địa phương, việc quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch ba loại rừng còn chồng chéo, chưa thống nhất, thiếu tính đồng bộ. Cơ cấu quản lý sử dụng rừng và đất rừng chưa hợp lý.

Việc quản lý sử dụng rừng và đất lâm nghiệp có phần tách biệt và khép kín đã tạo ra rào cản cho việc tổ chức các hoạt động sản xuất lâm nghiệp khác như trồng rừng, khai thác, chế biến gỗ và lâm sản, gây cản trở cho việc thu hút các nguồn lực xã hội đầu tư vào việc bảo vệ và phát triển rừng. Tình trạng vi phạm các quy định, pháp luật về lâm nghiệp vẫn còn diễn ra tại một số vùng, điểm nóng bao gồm phát nương làm rẫy, khai thác rừng trái phép, săn bắn động vật hoang dã, cháy rừng, làm suy giảm diện tích và chất lượng.

Công tác giao rừng, thuê rừng chưa đồng bộ với giao đất, thuê đất lâm nghiệp; phần lớn các hộ gia đình, cá nhân ở một số tỉnh chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâm nghiệp để phát triển sản xuất lâm nghiệp lâu dài, ổn định. Việc xã hội hóa công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng vẫn còn nhiều hạn chế; chất lượng rừng trồng phòng hộ, rừng sản xuất có nơi hiệu quả chưa cao.

Bên cạnh đó, công tác chế biến, tiêu thụ sản phẩm chưa phát triển, các cơ sở chế biến gỗ chủ yếu vẫn là sơ chế, quy mô hộ gia đình nhỏ lẻ, công nghệ chế biến lạc hậu, thị trường xuất khẩu nguyên liệu hạn hẹp, kinh tế hợp tác trong trồng và chế biến lâm sản và sản xuất theo chuỗi giá trị gần như chưa phát triển.

Nhằm khắc phục, theo Thứ trưởng Nguyễn Quốc Trị, cần xác định rừng vừa là tài nguyên, vừa là tư liệu sản xuất đặc biệt quan trọng, có khả năng tái tạo, là tài sản, nguồn lực to lớn của đất nước, vừa là yếu tố quan trọng của môi trường sinh thái, góp phần giảm nhẹ thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu và bảo tồn đa dạng sinh học.

Cần phát triển lâm nghiệp bền vững trên cơ sở quản lý, sử dụng hiệu quả tài nguyên rừng; hài hòa các mục tiêu về kinh tế, xã hội, bảo vệ môi trường; đưa lâm nghiệp thật sự trở thành một ngành kinh tế-kỹ thuật theo hướng hiện đại, hiệu lực, hiệu quả và sức cạnh tranh cao; liên kết theo chuỗi từ phát triển rừng, bảo vệ rừng, sử dụng rừng đến chế biến và thương mại lâm sản để nâng cao giá trị rừng; sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, phát huy tiềm năng về khí hậu, đất đai và lợi thế so sánh của các vùng, miền; bảo đảm hài hòa lợi ích quốc gia, địa phương và lợi ích của người dân.

Cần tăng cường đổi mới mô hình tăng trưởng từ dựa vào mở rộng diện tích và khối lượng sang tập trung vào nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị gia tăng của sản phẩm lâm nghiệp. Phát triển nông lâm kết hợp, lâm sản ngoài gỗ; lâm nghiệp đô thị, cảnh quan và các loại hình du lịch bền vững gắn với rừng, nhằm phát huy đa giá trị từ rừng, góp phần thúc đẩy kinh tế lâm nghiệp tăng trưởng nhanh, bền vững...

Có thể bạn quan tâm

[Ảnh] “Bộ não” điều hành sân bay Long Thành trước thời khắc đón chuyến bay đầu tiên

[Ảnh] “Bộ não” điều hành sân bay Long Thành trước thời khắc đón chuyến bay đầu tiên

Cùng với các hạng mục đang được tăng tốc đẩy nhanh tiến độ để kịp khánh thành, đón chuyến bay đầu tiên vào ngày 19/12 tới, thì Đài Kiểm soát không lưu sân bay Long Thành được ví như “bộ não” điều hành sân bay lớn nhất nước ta này đang bước vào thời điểm cuối cùng lắp đặt các thiết bị để cơ bản hoàn thành trước ngày 15/12.

Quang cảnh hội thảo.

Hành trình “Tri thức trồng và chế biến cà-phê” trở thành di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại

Hội thảo khoa học - diễn đàn quốc tế năm 2025 về “Chuỗi giá trị ngành công nghiệp cà-phê toàn cầu - Phát triển toàn cầu, địa phương và bền vững” không chỉ thảo luận về chuỗi giá trị ngành công nghiệp cà-phê toàn cầu, mà còn hướng đến phát triển bền vững gắn với bản sắc văn hóa và tri thức bản địa.

Tổng số lao động đăng ký là 1.050,8 nghìn lao động trong 11 tháng qua, tăng 16% so với cùng kỳ 2024. (Ảnh: HNV)

Cả nước có gần 178 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới 11 tháng qua

Theo Cục Thống kê (Bộ Tài chính), 11 tháng năm 2025, cả nước có gần 178 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng số vốn đăng ký là 1.753,2 nghìn tỷ đồng và tổng số lao động đăng ký là 1.050,8 nghìn lao động, tăng 20,9% về số doanh nghiệp, tăng 20,9% về vốn đăng ký và tăng 16% về số lao động so cùng kỳ năm 2024.

Ông Luis Alberto Hernández Tejeda, Tổng Giám đốc Công ty Alquizar và ông Nguyễn Khắc Hoàng, Tổng Giám đốc Công ty Hoàng Gia Việt ký kết văn bản hợp tác. (Ảnh: Đại sứ quán Việt Nam tại Cuba)

Việt Nam và Cuba ký kết dự án hợp tác nông nghiệp trị giá hơn 50 triệu USD tại Cuba

Việc Công ty Hoàng Gia Việt ký kết Hợp đồng Liên doanh kinh tế quốc tế với Công ty Nông nghiệp Alquizar thuộc Tập đoàn Doanh nghiệp Nông-Lâm nghiệp Artemisa của Cuba không chỉ là một thỏa thuận thương mại đơn thuần, mà còn là minh chứng cho nỗ lực ngoại giao kinh tế tích cực của Đại sứ quán Việt Nam tại Cuba.

Nghệ nhân chế tác phụ kiện bạc tại tỉnh Hồ Nam, miền trung Trung Quốc. (Ảnh: Xinhua)

Ngày 6/12, giá bạc khôi phục đà tăng

Tính đến 10 giờ 10 phút sáng 6/12 (giờ Việt Nam), giá bạc khôi phục đà tăng, giao dịch quanh mức 58,273 USD/ounce. Cùng chiều với giá bạc thế giới, nhiều doanh nghiệp trong nước như: Phú Quý, Ancarat, Sacombank… đồng loạt điều chỉnh tăng giá bạc giao dịch ở hai chiều mua-bán.

Vận hành nhà máy điện rác ở Gia Bình, Bắc Ninh. (Ảnh NAM PHONG)

Thúc đẩy các dự án đầu tư xanh

Trong hành trình hiện thực hóa cam kết Net Zero vào năm 2050, bên cạnh các chính sách chung, những chính sách cụ thể thúc đẩy đầu tư xanh giữ vai trò then chốt. Thách thức lớn nhất hiện nay là ngoài yêu cầu về kỹ thuật, hạ tầng, cơ chế phối hợp và nhân lực, các dự án xanh luôn cần nguồn vốn rất lớn.

ESG đã trở thành yêu cầu bắt buộc đối với doanh nghiệp muốn duy trì tính cạnh tranh, thu hút nhà đầu tư và phát triển bền vững. (Ảnh: Đỗ Bảo)

Thực hành ESG cần sự đột phá

Những năm gần đây, Đảng và Nhà nước liên tục ban hành các chủ trương, chính sách, định hướng quan trọng thúc đẩy kinh tế xanh và thực hành ESG (Môi trường-Xã hội-Quản trị); trong đó, nổi bật là Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050.

[Video] Tuyến Cát Linh – Hà Đông vận hành hệ thống soát vé tự động không dùng tiền mặt

[Video] Tuyến Cát Linh – Hà Đông vận hành hệ thống soát vé tự động không dùng tiền mặt

Sáng 5/12, tại ga Cát Linh, tuyến đường sắt đô thị Cát Linh - Hà Đông chính thức vận hành hệ thống kiểm soát vé tự động. Hệ thống được lắp đặt đồng bộ tại các nhà ga, cho phép hành khách thanh toán bằng căn cước công dân gắn chip, mã QR, thẻ ngân hàng quốc tế cùng nhiều phương thức điện tử khác.

Sản xuất phân bón tại Công ty cổ phần Phân đạm và Hóa chất Hà Bắc.

Tái cấu trúc công nghệ sản xuất hóa chất

Giám đốc Công ty cổ phần DAP số 2 - Vinachem Vũ Việt Tiến cho biết, những tháng đầu năm, đơn vị đối diện nhiều khó khăn như giá nguyên liệu phục vụ sản xuất tăng cao, quặng tuyển apatit thiếu, chất lượng suy giảm so với thiết kế.

Người dân tỉnh Quảng Ninh nuôi trồng thủy sản trên biển.

Nâng sức cạnh tranh cho nghề nuôi trồng thủy sản biển

Việt Nam có đường bờ biển dài, nhiều đảo, vịnh, đầm, phá… tạo điều kiện thuận lợi để phát triển đa dạng các loại hình nuôi trồng thủy sản. Hiện nay, nhiều hợp tác xã, nhân dân tại các địa phương ven biển đang ứng dụng công nghệ mới vào nuôi trồng thủy sản giúp nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm và thu nhập.