Một kinh nghiệm từ Nhật Bản

Nhật Bản đã thành công trong công cuộc bảo tồn di sản văn hóa-lịch sử theo hướng chuẩn mực, nghiêm ngặt nhưng vẫn tạo cơ hội để di sản "sống được" và tiếp biến với thời đại mới. Điều này là nhờ chiến lược hợp tác công-tư trong bảo tồn và phát triển theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, chính sách mềm dẻo tạo đồng thuận trên tinh thần "các bên cùng thắng".
Sơ đồ mô tả việc bán chỉ tiêu sử dụng đất không dùng hết cho chủ sở hữu công trình lân cận khu vực Nhà ga Tokyo.
Sơ đồ mô tả việc bán chỉ tiêu sử dụng đất không dùng hết cho chủ sở hữu công trình lân cận khu vực Nhà ga Tokyo.

Du lịch gắn kết phát triển và bảo tồn

Nhật Bản có tới 18 di sản văn hóa thế giới, chưa kể nhiều di sản cấp quốc gia. Công cuộc bảo tồn di sản ở đất nước này thường gắn với phát triển du lịch và một phần với thương mại, nhằm bảo đảm sự phát triển bền vững trong mọi lĩnh vực liên quan. Theo đó, một phần tiền thu được từ du lịch, thương mại sẽ được quay trở lại phục vụ công tác bảo tồn.

Công cuộc này chia làm bốn giai đoạn. Giai đoạn 1 (từ năm 1910 tới năm 1970) tập trung vào hình thành khung chính sách về bảo tồn di sản văn hóa. 10 năm tiếp theo là giai đoạn 2, tập trung vào sử dụng di sản văn hóa cho mục đích du lịch. Giai đoạn 3 (từ năm 1980 tới năm 2000) đi vào phân bổ lợi nhuận từ du lịch tới tay cộng đồng người dân. Giai đoạn 4 (năm 2000 tới nay) là thực hiện quy trình trao quyền cho cộng đồng trong phát triển du lịch địa phương.

Các công trình lịch sử được bảo hộ theo Luật Bảo tồn đền chùa cổ bao gồm cả làng mạc và nhà dân truyền thống. Chính quyền địa phương rất quan tâm đào tạo đội ngũ kỹ thuật viên bảo tồn tại chỗ, đồng thời ban hành các quy chế kỹ thuật bảo tồn công trình di sản văn hóa. Những công trình được bảo tồn nghiêm ngặt nhất đều gắn với phong tục tập quán, hoạt động và lễ hội hằng năm của địa phương. Việc tu sửa định kỳ, phòng cháy và hoạt động thể nghiệm luôn được cơ quan quản lý văn hóa và chính quyền địa phương tài trợ.

Việc quản lý, tu sửa những ngôi nhà cổ mang nhiều đặc trưng văn hóa truyền thống do chủ sở hữu hoặc đoàn thể tiến hành, song Nhà nước hỗ trợ tài chính. Việc phục chế, tu sửa, bảo dưỡng đều phải tuân thủ các quy định kỹ thuật nghiêm ngặt dưới sự chỉ đạo và thẩm định của hội đồng chuyên môn (bao gồm đại diện của Nhà nước và địa phương).

Việc xây dựng mới nhà ở và các cơ sở dịch vụ du lịch ở khu vực có cảnh quan lịch sử, văn hóa truyền thống phải tuân theo quy định nghiêm ngặt của chính quyền địa phương, không phá vỡ tổng thể chung. Phong cách kiến trúc sẽ theo hướng truyền thống thay vì nhà cao tầng hiện đại. Nhờ vậy, các địa phương bảo tồn và giữ được đặc trưng kiến trúc cũng như cảnh quan truyền thống của mình.

Cùng với bảo tồn di sản kiến trúc, Nhật Bản chú trọng bảo tồn di sản văn hoá phi vật thể, như các lễ hội, quy trình sản xuất sản phẩm văn hóa, ẩm thực, âm nhạc truyền thống, tạo sức hút lớn trong ngành du lịch. Nara và Kyoto là hai điển hình trong số các thành phố thành công trong công cuộc này.

Phát triển du lịch bền vững cần bốn điều kiện: Sử dụng sáng tạo di sản; quản lý, bảo tồn, bảo trì nghiêm cẩn; có hệ thống dịch vụ thu hút du lịch và cuối cùng là tăng cường nhận thức cho cộng đồng và chính quyền.

Có thể nói, du lịch là "nồi cơm Thạch Sanh" mang lại một nguồn thu lớn và lâu dài cho địa phương. Nhưng nếu quản lý không tốt, sẽ có thể gây ra nhiều hệ lụy tiêu cực, như phá vỡ lối sống truyền thống, làm mất bản sắc văn hóa địa phương,… Do đó, rất cần sự hợp tác chặt chẽ và hiệu quả giữa tất cả các bên liên quan, từ chính quyền trung ương và địa phương, đến các cơ quan hữu quan, hiệp hội và doanh nghiệp, và đặc biệt là chính cộng đồng người dân trong công cuộc này.

Chìa khóa vàng trong phát triển và bảo tồn

Cơ chế chuyển quyền phát triển (Transfer of Development Right) là một công cụ pháp lý được nhiều nước áp dụng. Nó cho phép chủ sở hữu bất động sản được chuyển nhượng quyền hợp pháp phát triển khu đất đó sang khu đất khác do dư thừa, không có nhu cầu hoặc năng lực tài chính để xây cất cao lên hay không thể xây (vì công trình di sản thuộc diện bảo tồn). Về nguyên tắc, có thể tổ chức sàn giao dịch chuyển quyền phát triển và ngân hàng chuyển quyền phát triển kết nối giữa các tổ chức, cá nhân chuyển nhượng và nhận chuyển nhượng quyền phát triển. Gần đây, công cụ chuyển quyền phát triển được nghiên cứu để triển khai thí điểm ở Việt Nam.

Nhật Bản không dùng thuật ngữ chuyển quyền phát triển mà có công cụ tương tự, tên là "Hệ thống Khu vực với Hệ số Sử dụng đất Ngoại lệ" thuộc hệ thống quy hoạch đô thị của Nhật Bản, bắt đầu từ năm 2000. Nó cho phép chuyển nhượng hợp pháp những chỉ tiêu sử dụng đất dư thừa không dùng tới (thí dụ ở các công trình di sản thấp tầng, mật độ xây dựng thấp) sang các công trình thương mại cao tầng kế bên có nhu cầu thông qua giao dịch thương mại và trích một phần tiền chênh lệch để đầu tư cho bảo tồn, tôn tạo di sản.

Công cụ này lần đầu được đưa ra cho dự án tái phát triển "đặc khu" trọng điểm hàng đầu thủ đô Tokyo là quần thể quanh Ga Tokyo (116,7 ha). Nó tạo điều kiện để chủ sở hữu nhà ga (Tập đoàn JR East) bán được 700% hệ số sử dụng đất không dùng đến (trên tổng số 900% cho phép) cho các chủ đầu tư cao ốc thương mại lân cận có nhu cầu xây "lố" chỉ tiêu sử dụng đất. Một phần tiền thu được đã dành cho quỹ dự án trùng tu tôn tạo Ga Tokyo (được xếp hạng di sản quốc gia năm 2003). Dự án trùng tu này hoàn thành năm 2012.

Một phép hoán đổi khác là Cơ chế thiết kế môi trường đô thị, lần đầu được thành phố Yokohama ban hành năm 1973, nhằm khuyến khích các chủ đầu tư tư nhân tham gia cùng chính quyền xây dựng môi trường đô thị tốt hơn. Nó cho phép thưởng thêm chiều cao công trình và hệ số sử dụng đất (so với mức trần ở khu vực đó) cho các chủ đầu tư. Đổi lại, họ xây dựng các không gian phục vụ công cộng trong khu vực có công trình.

Tái sử dụng thích ứng hay cải tạo thích ứng (adaptive reuse) là quá trình tái sử dụng một địa điểm hay công trình cũ cho một mục đích hay công năng mới, khác với gốc ban đầu. Cách tiếp cận này được sử dụng rộng rãi trên thế giới. Nó được xem như phương án dung hòa mâu thuẫn nhóm lợi ích, giảm tối đa tổn thất kinh tế cho chủ công trình, khuyến khích tư nhân tham gia bảo tồn.

Nhật Bản có nhiều công trình cải tạo thích ứng một cách phù hợp và tinh tế. Nhiều chủ nhà cổ có thể có cuộc sống tiện nghi trong ngôi nhà di sản. Vỏ ngoài được giữ lại tối đa và cẩn trọng, nội thất có thể được cải tạo khá tự do. Ngôi nhà khi ấy trở thành "di sản sống" (living heritage) thay vì nhà kiểu "bảo tồn bảo tàng" nhưng không người ở.

Có thể bạn quan tâm

Hàn điện là một trong những ngành "khát" lao động tại nhiều quốc gia.

Lành mạnh và minh bạch hơn

Tình trạng doanh nghiệp không có giấy phép vẫn đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, cộng với nạn lừa đảo đã làm ảnh hưởng lớn đến người lao động. Làm lành mạnh, minh bạch hóa thị trường lao động xuất khẩu trở thành đòi hỏi ngày càng cấp thiết.

Người lao động Việt Nam vốn chăm chỉ, song cần nâng cao chất lượng tay nghề để có thể vươn đến phân khúc thu nhập cao.

Đổi mới căn bản từ đào tạo

Xu hướng chuyển đổi xanh của các nền kinh tế thế giới đòi hỏi Việt Nam phải sớm có chiến lược đào tạo bài bản nhằm chuẩn bị nguồn nhân lực chất lượng cao, có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

Một lớp học tiếng Hàn dành cho học viên chuẩn bị xuất khẩu lao động. Ảnh Văn Học

Xây dựng hệ sinh thái xuất khẩu lao động toàn diện

Thị trường lao động đang ngày càng đòi hỏi người lao động có trình độ tay nghề, kỹ năng cao. Vì thế, công tác đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài cần một sự thay đổi về chất. Đó là chuyển từ "xuất khẩu sức lao động" sang "xuất khẩu nhân lực chất lượng".

Cơ quan chức năng Việt Nam họp với đối tác Hàn Quốc nhằm thúc đẩy hợp tác song phương trong lĩnh vực lao động, việc làm.

Đồng bộ giải pháp mở rộng thị trường thu nhập cao

Ông Đặng Đức Thuận, Phó Cục trưởng Quản lý lao động ngoài nước, Bộ Nội vụ, chia sẻ với Nhân Dân cuối tuần, về những giải pháp trong quản lý nhà nước để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực xuất khẩu lao động. Đi đôi với đó là giảm khâu trung gian, chống lừa đảo, bảo vệ người lao động.

Tại Techno Park, các doanh nghiệp FDI tham gia ngay từ khâu đặt hàng và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao tại chính các nhà máy đạt tiêu chuẩn quốc tế. (Ảnh Vân Nguyễn)

Xu thế mới từ mô hình xuất khẩu tại chỗ

Thay vì phải trả những khoản chi phí không nhỏ cho môi giới xuất khẩu lao động, phải xa gia đình đi làm ăn ở nơi xứ người với rất nhiều khác biệt về văn hóa, khí hậu, thói quen sinh hoạt… nhiều người lao động Việt Nam đang lựa chọn việc làm theo một xu hướng mới.

Anh Lê Lương Nguyên (ngoài cùng bên phải) trao đổi với lao động trong xưởng.

Cú "quay xe" ngoạn mục

Nghệ An là một trong những địa phương có nhiều lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Sau nhiều năm bôn ba xứ người, không ít cá nhân quyết định về nước lập nghiệp, trở thành những tấm gương làm kinh tế giỏi.

Các hình thái thời tiết ngày càng cực đoan buộc các đô thị phải sớm thay đổi cách ứng phó, tăng khả năng chống chịu. (Ảnh THÀNH ĐẠT)

Quy hoạch đô thị và sức đề kháng với thiên tai

Liên tiếp những đợt thiên tai bất thường xảy ra trong hai tháng qua đã khiến nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước gánh chịu những hậu quả khôn lường, và làm bộc lộ nhiều bất cập, đặc biệt là hiện tượng ngập lụt tại các đô thị lớn.

Ứng phó ngập lụt đô thị không chỉ là nhiệm vụ kỹ thuật, mà còn là thước đo năng lực quản trị và tầm nhìn phát triển quốc gia. (Ảnh: Xuân Ngọc)

Chuyển đổi tư duy để chủ động thích ứng

Ngập lụt đô thị đã và đang trở thành vấn đề nổi cộm, kéo dài và khó giải quyết ở hầu hết các thành phố lớn của Việt Nam. Thời gian qua, dù hàng loạt dự án chống ngập được triển khai với vốn đầu tư lớn, nhưng tình trạng nước dâng ngập đường, nhà cửa, khiến giao thông tê liệt và đời sống người dân bị đảo lộn... vẫn tiếp diễn.

Ao Hoàng Giáp trong ngõ 99 Định Công Hạ (phường Định Công, Hà Nội) bị lấn chiếm, dựng nhà tạm và tập kết vật liệu xây dựng. (Ảnh VĂN HỌC)

Khi mặt nước vẫn đang bị thu hẹp

Tình trạng lấn chiếm, lấp ao, hồ, sông, kênh dẫn nước trái phép, không chỉ gây thất thoát tài sản công, mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng thoát nước, thấm nước của Thủ đô Hà Nội.

Công viên trữ nước Chulalongkorn Centenary ở trung tâm thủ đô Bangkok (Thái Lan) có khả năng lưu trữ hơn 1 triệu lít nước nhờ hệ thống hồ chứa liên hoàn. (Nguồn QUYHOACHDOTHI.VN)

Gợi mở từ thế giới

Trải qua hàng thập kỷ gồng mình chống chịu các hiện tượng thời tiết cực đoan, nhiều mô hình đô thị tích hợp khả năng chống chịu biến đổi khi hậu được triển khai ở các quốc gia như: Hà Lan, Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc hay Đức là minh chứng tiêu biểu cho tư duy "sống chung với nước" bằng khoa học, quy hoạch và quản trị hiện đại.

Trao quà cứu trợ đến với người dân vùng lũ tỉnh Đắk Lắk. (Ảnh TTXVN)

Cần chính sách đặc biệt

Hơn một tuần qua, sau đợt mưa lũ lịch sử, các tỉnh Lâm Đồng, Khánh Hòa, Đắk Lắk, Gia Lai vẫn oằn mình nỗ lực vượt qua những tổn thất nặng nề do thiên tai.

Công nhân EVNHANOI sử dụng máy đo nhiệt kiểm tra tình trạng thiết bị điện tại trạm biến áp vận hành không người trực. Ảnh: Thành Đạt

Từ ứng dụng tới làm chủ công nghệ chiến lược

Xuất phát từ chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, và trên tinh thần cụ thể hóa Nghị quyết số 57-NQ/TW; Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, Việt Nam xác định tập trung nguồn lực phát triển các công nghệ chiến lược.

Quang cảnh Hội nghị Cấp cao ASEAN+3 lần thứ 28. (Ảnh VGP/Nhật Bắc)

Cải thiện môi trường kinh doanh nhờ hiện đại hóa quản lý

Một số ngành nghề như kinh doanh "tạm nhập, tái xuất" thực phẩm đông lạnh, xuất khẩu gạo hay dịch vụ kế toán… vốn được xác định là ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Doanh nghiệp hoạt động trong các ngành nghề này thường khá chật vật, chạy đôn chạy đáo để lo hoàn thiện hồ sơ xin giấy phép kinh doanh.

Phó Tổng Giám đốc Qualcomm Gerardo Giaretta nhận định, kỹ sư Việt Nam có trình độ đẳng cấp thế giới.

Cú huých đủ mạnh

Một doanh nghiệp Việt Nam lọt vào báo cáo của Gartner, hệ quy chiếu khắt khe bậc nhất thế giới, có thể chỉ là một lát cắt nhỏ của ngành công nghệ. Nhưng đằng sau đó là tương lai đầy hứa hẹn: Người Việt đủ khả năng bước vào sân chơi công nghệ lõi, song cần có một cú huých đủ mạnh.

Công nhân EVNHANOI kiểm tra vận hành Hệ thống thiết bị đóng cắt hợp bộ. Ảnh: Thành Đạt

Hợp tác ba bên trong phát huy giá trị cốt lõi

Từ một hệ thống chủ yếu vận hành bằng thiết bị nhập khẩu, ngành điện Việt Nam đang bước vào giai đoạn vươn mình, nỗ lực làm chủ các công nghệ lõi, để không bị tụt lại trong xu thế chuyển dịch năng lượng toàn cầu.

Kiểm tra thông số thiết bị điện tại trạm biến áp. (Ảnh Thành Đạt)

Nền tảng quản lý, vận hành tối ưu lưới điện

Với yêu cầu ngày càng cao về chất lượng và độ tin cậy cung cấp điện, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) không ngừng cải thiện nền tảng hạ tầng, ứng dụng các giải pháp công nghệ hiện đại. Trong đó, việc làm chủ nhiều bộ khung công nghệ cốt lõi giúp quá trình quản lý và vận hành lưới điện ngày càng hiệu quả.

Tòa nhà PECC2 Innovation Hub tại Thành phố Hồ Chí Minh đã vận hành BESS công suất 750 kW.

BESS - Gỡ nút thắt cho năng lượng tái tạo

Những năm gần đây, Việt Nam đã vươn lên nhóm quốc gia tăng trưởng năng lượng tái tạo nhanh nhất khu vực. Tuy nhiên, tình trạng nguồn điện sạch vẫn bị bỏ phí cần được ngành điện nhận diện và tìm lời giải.

Trung tâm Điều khiển số tại Trung tâm Điều độ Hệ thống điện Thành phố Hà Nội được xây dựng trên nền tảng hệ thống SCADA. (Ảnh Thành Đạt)

Đo độ phát triển công nghệ, đếm lợi thế cạnh tranh

Công nghệ lõi là những công nghệ nền tảng, có khả năng chi phối chuỗi sản xuất công nghiệp, tạo ra hệ sinh thái sản phẩm, dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Làm chủ công nghệ lõi đồng nghĩa với việc nắm quyền thiết kế, tích hợp và sản xuất hệ thống, từ đó giảm phụ thuộc bên ngoài và nâng cao năng lực tự chủ công nghệ.

Đoàn đánh giá ngoài thuộc Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long tiến hành kiểm định chất lượng một số chương trình đào tạo của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội).

Triết lý giáo dục trong thời đại thời AI

Triết lý giáo dục là nền tảng định hướng cho bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục. Nó không chỉ là khẩu hiệu hay niềm tin chung, mà là hệ quy chiếu giá trị chi phối mọi hoạt động quản lý, giảng dạy và học tập.

Đoàn chuyên gia của Hiệp hội Kiểm định các Trường đại học Nhật Bản kiểm định chất lượng tại Trường đại học Việt Nhật. (Ảnh VJU)

Phép thử với năng lực tự đổi mới

Nếu như kiểm định chất lượng bên ngoài là "tấm gương phản chiếu" khách quan, thì bảo đảm chất lượng bên trong chính là "nội lực" duy trì và phát triển bền vững của chính mỗi trường đại học.

GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Chuyển hóa từ công cụ thành động lực

Đánh giá hiện trạng công tác bảo đảm chất lượng giáo dục đại học và nêu định hướng một số giải pháp là nội dung cuộc phỏng vấn của phóng viên Nhân Dân cuối tuần với GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

PGS, TS Lê Văn Hảo.

Lan tỏa văn hóa chất lượng

Theo PGS, TS Lê Văn Hảo, Ủy viên Hội đồng Kiểm định chất lượng giáo dục của Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long và Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Sài Gòn, các cơ sở giáo dục đại học cần có chiến lược và giải pháp cụ thể để hình thành và phát triển bền vững văn hóa chất lượng của nhà trường.

Sinh viên học tập tại Thư viện Trường đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh. (Nguồn: Website nhà trường)

Tâm tư "người trong cuộc"

Những năm qua, công tác kiểm định chất lượng giáo dục đại học đã được triển khai đồng bộ, có chiều sâu và đạt kết quả tích cực. Tuy nhiên, công tác tự đánh giá và bảo đảm chất lượng giáo dục đại học vẫn còn nhiều khó khăn.

Thiết kế: Khiếu Minh; ảnh: Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam và Thành Đạt

Tinh thần khai phóng và khát vọng sáng tạo

Tháng 11/1925, khóa khai giảng đầu tiên của ngôi trường Mỹ thuật Đông Dương, tiền thân của Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, đã đặt dấu mốc đặc biệt mang tính bước ngoặt cho một cuộc cách mạng thẩm mỹ lớn trong xã hội Việt Nam đương thời.  

Lê Anh Vân, Chiến lũy, sơn dầu, 100 x 129,5cm, 1984. trong Sưu tập của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

Chủ động thay đổi để phát triển

Nhân Dân cuối tuần ghi nhận ý kiến của một số nhà giáo, nghệ sĩ, nhà sưu tập trong và ngoài nước về sự chuyển dịch của vị thế mỹ thuật Việt Nam trong đời sống văn hóa tinh thần của người Việt Nam nói riêng, trên bình diện quốc tế nói chung.