Cần một khung chính sách chuyển đổi đất công bằng, hiệu quả

Định giá đất theo giá thị trường được kỳ vọng sẽ giúp chính sách minh bạch và công bằng hơn. Thế nhưng, khi áp dụng, nhiều người dân có thể bị rơi vào cảnh phải bỏ ra số tiền lớn để được sử dụng chính mảnh đất của mình.

Một góc khu đô thị mới. Ảnh: NAM ANH
Một góc khu đô thị mới. Ảnh: NAM ANH

Thực trạng này phản ánh mặt bất cập nếu cách xác định giá không hợp lý, chính sách sẽ trở thành rào cản thay vì động lực.

Luật Đất đai 2024 bắt đầu có hiệu lực từ tháng 8/2024. Sau một năm triển khai, nhiều quy định mới đã nhanh chóng đi vào cuộc sống, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, khai thác tốt hơn nguồn lực đất đai cho phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời cải cách từng bước thủ tục hành chính trong lĩnh vực này. Các nội dung quản lý cũng được cập nhật, đáp ứng yêu cầu phát triển và gắn với các mục tiêu chiến lược. Tuy nhiên, bối cảnh mới đặt ra yêu cầu hệ thống pháp luật đất đai phải tiếp tục được hoàn thiện, trong đó cách xác định giá đất “theo giá thị trường” là vấn đề cần được đặc biệt quan tâm.

Trong cuộc trao đổi ý kiến với Thời Nay, TS Trần Xuân Lượng, Phó Viện trưởng Nghiên cứu đánh giá thị trường bất động sản Việt Nam, đã lý giải nguyên nhân và đề xuất hướng đi để chính sách đất đai thật sự gần dân, sát thực tiễn.

91.jpg

Phóng viên (PV): Thưa ông, từ khi Luật Đất đai 2024 được thông qua với nguyên tắc định giá đất theo giá thị trường, chi phí chuyển đổi mục đích sử dụng đất đã trở thành gánh nặng cho nhiều người dân. Ông nhìn nhận thế nào về thực trạng này?

TS Trần Xuân Lượng: Đây là vấn đề rất đáng lưu tâm. Về nguyên tắc, định giá đất theo giá thị trường là hoàn toàn đúng, thể hiện tính minh bạch, tiệm cận thực tế và xóa bỏ cơ chế xin - cho. Nhưng hiện nay, khái niệm “giá thị trường” đang bị hiểu chưa đầy đủ và áp dụng chưa phù hợp với thực tiễn.

Thực tế, chi phí chuyển đổi mục đích sử dụng đất đã vượt quá khả năng chi trả của phần lớn người dân, nhất là tại các khu vực ngoại thành hoặc những nơi xuất hiện làn sóng đầu cơ mạnh. Tôi biết có trường hợp ở Nghệ An, một hộ gia đình phải nộp tới 4,5 tỷ đồng để chuyển từ đất nông nghiệp sang đất ở; ở Ba Vì (Hà Nội), mức phí cũng lên đến 900 triệu đồng. Với những người đã sinh sống ổn định trên mảnh đất đó hàng chục năm, đây là khoản chi quá sức tưởng tượng.

Nguyên nhân nằm ở việc giá chuyển đổi được xác lập dựa trên các cuộc đấu giá đất. Người tham gia thường là nhà đầu cơ hoặc doanh nghiệp có tiềm lực tài chính, sẵn sàng đẩy giá lên cao. Mức giá này sau đó lại được dùng làm chuẩn tính phí cho người dân, trong khi họ không phải nhà đầu tư, mà chỉ muốn hợp thức hóa quyền sử dụng đất ở.

PV: Ông cho rằng “giá thị trường” đang chưa được hiểu đầy đủ. Vậy theo ông, giá thị trường đúng nghĩa phải được xác lập như thế nào?

TS Trần Xuân Lượng: Giá thị trường thật sự phản ánh nhu cầu thật của thị trường, tức là phải phản ánh được khả năng thanh toán được đại bộ phận của số đông, trừ những mặt hàng đặc biệt và khan hiếm. Nó phải được kết tinh từ giá trị sử dụng của hàng hóa, sức lao động bỏ ra, thời gian kết tinh, giá trị mà hàng hóa có thể tạo ra theo quy luật và quan hệ cung - cầu thực tế.

Đất đai là loại hàng hóa đặc biệt, nhưng không quá khan hiếm, hoàn toàn có thể xác định được bằng phương pháp thu nhập…? Thí dụ: Một lô đất ở 100 m2, nếu xây nhà 5 tầng kinh doanh nhà nghỉ khách sạn… thì thu được bao nhiêu tiền/tháng/năm…? Từ đó ta có thể xác định được giá trị sử dụng cao nhất của nó và xác định được giá trị thật của lô đất…?

Không thể lấy giá do vài người đưa ra trong một cuộc đấu giá “thổi giá” để làm thang đo tham chiếu giá thị trường, để áp cho hàng nghìn hộ dân có nhu cầu sinh sống. Đó là sự đánh đồng nguy hiểm. Hiện nay, tâm lý “đất luôn tăng giá” đã góp phần tạo ra khan hiếm giả tạo, trong khi nhiều khu vực vẫn là đất nông nghiệp nhưng bị khóa chặt quy hoạch. Người dân không thể chuyển đổi dù có nhu cầu thực. Mức giá mà phần lớn người dân không đủ khả năng tiếp cận thì không thể gọi là giá thị trường đúng nghĩa.

PV: Nhưng cũng có ý kiến cho rằng, chi phí chuyển đổi cao sẽ giúp Nhà nước thu được nguồn lực lớn từ đất đai. Quan điểm của ông thế nào?

TS Trần Xuân Lượng: Cách tiếp cận này tiềm ẩn rủi ro và không bền vững. Đất đai không thể chỉ được nhìn nhận như một loại hàng hóa tạo ra ngân sách. Nó là tư liệu sản xuất của mọi hàng hóa dịch vụ, là nền tảng của an sinh xã hội và là quyền tiếp cận thiết yếu công bằng của người dân.

Thu ngân sách từ chênh lệch giá đất phải dựa trên nguyên tắc công bằng và phân loại rõ ràng. Không thể thu đồng loạt, bất kể người dân có nguồn gốc đất ra sao, sử dụng vào mục đích gì và hoàn cảnh thế nào. Nếu chi phí quá cao, người dân sẽ tìm cách né tránh, kéo theo hệ lụy pháp lý, khiếu kiện và làm méo mó thị trường. Một chính sách đúng không chỉ bảo đảm nguồn thu mà còn tạo sự ổn định, khuyến khích minh bạch và giảm xung đột xã hội.

PV: Theo ông, chính sách chuyển đổi đất nên được điều chỉnh như thế nào để bảo đảm công bằng, khả thi và thúc đẩy thị trường phát triển lành mạnh?

TS Trần Xuân Lượng: Hiện Bộ Tài chính đang lấy ý kiến sửa đổi Nghị định 103 theo hướng giảm tỷ lệ chênh lệch khi tính phí chuyển đổi, chẳng hạn lấy 70% giá đất ở làm căn cứ thay vì 100% đã thể hiện sự cầu thị, mong muốn tháo gỡ khó khăn cho người dân. Tuy nhiên, đây mới chỉ là giải pháp giảm nhẹ áp lực, chưa chạm tới gốc rễ của vấn đề. Cách tính vẫn áp dụng một khung giá chung, chưa phân biệt hoàn cảnh cụ thể, đối tượng hay mục đích sử dụng.

Vì vậy, tôi cho rằng cần xây dựng một chính sách nhiều tầng, linh hoạt, phù hợp với từng nhóm đối tượng, loại đất và mục đích sử dụng. Không thể áp cùng một cách tính cho hộ gia đình nghèo muốn hợp thức hóa đất ở và doanh nghiệp muốn chuyển đất để làm dự án thương mại.

Tôi đề xuất nên tập trung vào ba nội dung: Thứ nhất, xác định lại khái niệm “giá thị trường” dựa trên dữ liệu giao dịch thực tế, dòng tiền từ đất, khảo sát thu nhập bình quân và có sự tham gia của các tổ chức thẩm định độc lập, với Nhà nước đóng vai trò trọng tài. Thứ hai, mở rộng nguồn cung đất thông qua điều chỉnh quy hoạch hợp lý, ưu tiên khu vực đông dân cư có nhu cầu thực để giảm áp lực giá.

Thứ ba, phân loại rõ đối tượng và mục đích chuyển đổi: hộ dân đã sử dụng đất ổn định từ trước năm 1993, có công khai hoang, nên được hợp thức hóa gần như miễn phí, chỉ thu phí hành chính; trường hợp mới sử dụng đất thời gian ngắn có thể áp dụng mức phí cao hơn nhưng phải có giới hạn, hạn mức hợp lý; hộ nghèo, gia đình chính sách, người già neo đơn, hộ không có nhu cầu kinh doanh cần được ưu tiên đặc biệt; doanh nghiệp hoặc cá nhân chuyển đổi để đầu tư phải nộp đầy đủ theo cơ chế thị trường.

Chính sách đất đai, theo tôi, phải giống như việc đo nhiều đôi giày cho nhiều cỡ chân. Nếu chỉ may một kiểu và bắt mọi người đi, sẽ nhiều người không vừa, có người bị lỏng lẻo, có người đau đớn.

Tôi tin rằng, nếu các cơ quan xây dựng chính sách thật sự nghiêm túc, tham vấn đầy đủ ý kiến chuyên môn và lắng nghe thực tế từ người dân, chúng ta có thể tạo ra một khung chính sách chuyển đổi đất công bằng, linh hoạt và hiệu quả. Quan trọng nhất là đừng nhìn đất như “mỏ vàng” để khai thác nguồn thu trong ngắn hạn, mà phải coi đó là nền tảng cho sinh kế, ổn định xã hội và phát triển bền vững lâu dài.

PV: Xin cảm ơn ông!

Bộ Nông nghiệp và Môi trường vừa đề xuất thay đổi nguyên tắc xác định giá đất trong dự thảo sửa đổi Luật Đất đai trình Quốc hội tháng 10/2025. Thay vì hoàn toàn theo “nguyên tắc thị trường”, giá đất sẽ do Nhà nước quyết định, phù hợp thực tiễn và yêu cầu quản lý. Hai phương án được đưa ra:

(1) Chính phủ ban hành bảng giá đất định kỳ 5 năm, có thể điều chỉnh khi biến động lớn;

(2) Áp dụng hệ số điều chỉnh giá đất (K) do tỉnh ban hành hằng năm, thay cho việc xác định giá cụ thể từng trường hợp. Mục tiêu là đơn giản thủ tục, minh bạch cơ sở tính thuế, ổn định thị trường và nâng cao hiệu quả sử dụng đất.

Có thể bạn quan tâm

Khi niềm tin thị trường được củng cố, các doanh nghiệp bất động sản có thể huy động vốn với chi phí hợp lý hơn. Ảnh: NAM ANH

Bước ngoặt của trái phiếu doanh nghiệp

Nhiều quy định mới cho thị trường trái phiếu doanh nghiệp đang được đưa ra xin ý kiến, hướng tới thay thế các quy định cũ để hoàn thiện khung pháp lý và củng cố niềm tin dài hạn cho thị trường.

Đề xuất cấp quota nhập khẩu vàng đang thu hút nhiều kỳ vọng lẫn băn khoăn.

Băn khoăn với “quota” nhập khẩu vàng

Giữa bối cảnh thị trường vàng liên tục biến động và chênh lệch giá trong nước, quốc tế đang cao kỷ lục, đề xuất cấp quota nhập khẩu vàng đang thu hút nhiều kỳ vọng lẫn băn khoăn. Giải pháp này liệu có đủ sức giải quyết tận gốc sự méo mó kéo dài của thị trường vàng hay chỉ mang tính “giảm đau” ngắn hạn.

Đối mặt “xanh vỏ đỏ lòng”

Khi thị trường chứng khoán (TTCK) có hiện tượng “xanh vỏ, đỏ lòng”, nghĩa là VN-Index tăng, nhưng nhiều cổ phiếu (CP) lại giảm, áp lực của các quỹ đầu tư lại được đem ra mổ xẻ.

“Giảm áp” margin

Trước đây, tiền cho vay ký quỹ (margin) thường được nghĩ đến như dòng vốn ngắn hạn trên thị trường chứng khoán (TTCK). Hiện nay, nhiều nhà đầu tư nắm giữ cổ phiếu (CP) dài hạn cũng sử dụng margin. Nhưng sự bao phủ mạnh mẽ của margin liệu có song hành với những rủi ro tiềm ẩn?

Doanh nghiệp cung cấp giải pháp công nghệ phối hợp với Thuế Hải Phòng trực tiếp xuống chợ hỗ trợ tiểu thương. Ảnh KỲ DUYÊN

Tuân thủ tốt không lo bị kiểm tra thuế

Băn khoăn lớn nhất của các hộ kinh doanh trong cuộc chuyển đổi bỏ thuế khoán là vấn đề xử lý hàng tồn kho, nguy cơ bị truy thu thuế và các vấn đề liên quan đến kỹ thuật khi thay đổi phương pháp tính thuế.

Điểm rơi của dòng tiền

Dòng tiền trên thị trường theo thời gian sẽ có sự chuyển đổi trạng thái rất linh hoạt, thậm chí có cả “độ nén” trong việc tích lũy để chờ cơ hội và sẽ bùng nổ rất nhanh nếu có các thông tin thuận lợi xuất hiện.

Ngân hàng Agribank quản lý chặt chẽ rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng cho các dự án năng lượng tái tạo như điện gió. Ảnh: NAM ANH

Thể chế hóa tương lai năng lượng xanh

Nghị quyết số 70-NQ/TW của Bộ Chính trị đánh dấu bước chuyển mạnh trong thể chế hóa chuyển đổi năng lượng xanh. Đây không chỉ là định hướng phát triển ngành năng lượng, mà còn là cam kết của Việt Nam với mục tiêu Net Zero 2050.

Sự xuất hiện của nhiều doanh nghiệp mới niêm yết sẽ cải thiện thanh khoản và thu hút thêm nhà đầu tư. Ảnh: NGUYỆT ANH

Nhiều điểm đáng chú ý từ chỉ số P/E

Theo dữ liệu từ Fiintrade (nền tảng phân tích dữ liệu chứng khoán), định giá P/E của thị trường chứng khoán Việt Nam hiện ở mức 14,9 lần, tăng hơn 11% chỉ trong nửa năm qua. Con số tưởng chừng tích cực này lại ẩn chứa nhiều tín hiệu đáng suy ngẫm về sức khỏe thật sự của thị trường.

Hướng dẫn doanh nghiệp kê khai tại Thuế thành phố Hà Nội. Ảnh: NAM ANH

Gỡ nút thắt dòng tiền từ chính sách thuế

Luật Thuế giá trị gia tăng mới được kỳ vọng góp phần minh bạch hóa chính sách và nâng cao hiệu quả quản lý thuế, song quá trình thực thi đang bộc lộ nhiều vướng mắc khiến doanh nghiệp gặp khó về dòng tiền.

Sau IPO, vốn điều lệ của VPBankS sẽ đạt mốc 20 nghìn tỷ đồng tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động kinh doanh. Ảnh: NAM ANH

Mở đường cho dòng vốn chảy mạnh

Khi thể chế được “cởi trói”, thị trường vốn Việt Nam bước vào chu kỳ tăng trưởng mới. Nghị định 245/2025 với nhiều cải cách trong quy trình chào bán và niêm yết cổ phiếu mở đường cho dòng vốn trở thành động lực mới của tăng trưởng kinh tế.

Chứng khoán Việt Nam đang bước vào giai đoạn phát triển mới với kỳ vọng sẽ có sự gia tăng mạnh mẽ. Ảnh: NAM ANH

Chứng khoán mở rộng biên kỳ vọng

Để được nâng hạng chính thức từ ngày 21/9/2026, thị trường chứng khoán Việt Nam sẽ trải qua kỳ rà soát, đánh giá vào tháng 3/2026. Trong khi chờ đợi, các cơ quan quản lý cần khắc phục triệt để những vấn đề đã được nhận diện, tiến tới cải thiện sâu thị trường.

Giao dịch tại sàn giao dịch tài sản mã hóa VIX (VIXEX). Ảnh: VIX

Tạo lập thị trường tài sản mã hóa minh bạch

Nghị quyết 05/2025/NQ-CP của Chính phủ về thí điểm thị trường tài sản mã hóa là bước đi quan trọng để thúc đẩy thị trường tài sản số phát triển, đóng góp vào mục tiêu tăng trưởng hai con số của nền kinh tế Việt Nam.

Khách hàng vay trên các sàn P2P Lending tối đa là 400 triệu đồng. Ảnh: NAM ANH

Cho vay ngang hàng - cần niềm tin hơn tốc độ

Dư địa của hoạt động này còn rất lớn tại Việt Nam, quy mô có thể đạt tới hàng chục tỷ USD. Tuy nhiên, các chuyên gia cho rằng vẫn thiếu các cơ chế bảo vệ cả người vay, lẫn cho vay, tỷ lệ rủi ro của kênh tài chính mới mẻ vẫn ở mức cao.

Chứng khoán Việt Nam đã bắt kịp nhiều quốc gia trong khu vực về mức độ vốn hóa thị trường và thanh khoản. Ảnh: NAM ANH

Mở rộng kênh dẫn vốn cho nền kinh tế

Hành lang pháp lý đang được hoàn thiện với nhiều chính sách mang tính chất đột phá, nhằm thu hút nguồn lực tài chính cho tăng trưởng kinh tế trung và dài hạn. Đồng thời, các sản phẩm đầu tư mới cũng đang được bổ sung, nâng cao tính hấp dẫn của thị trường tài chính Việt Nam.

Cho vay mua bất động sản chiếm tỷ lệ cao trong hoạt động tín dụng. Ảnh: NGUYỆT ANH

Ngăn chặn rủi ro lệ thuộc tín dụng

Trước thực tế dòng vốn tín dụng đang chảy vào bất động sản với tốc độ ngày càng mạnh, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã chủ động điều chỉnh chính sách nhằm định hướng và kiểm soát dòng vốn này theo hướng an toàn, bền vững hơn.

Nhu cầu về chỗ ở của người dân không ngừng mở rộng, nhất là ở phân khúc nhà ở vừa túi tiền. Ảnh: NAM ANH

"Giấc mơ an cư" cuối năm

Thị trường bất động sản Việt Nam đang tích lũy những yếu tố tích cực. Sự tăng trưởng nóng dựa trên đầu cơ giảm dần, cơ hội năm nay được kiến tạo từ nhu cầu ở thật...

Phát hành trái phiếu đang trở thành kênh hút vốn của các ngân hàng. Ảnh: NGUYỆT ANH

Ngân hàng chạy đua với thanh khoản

Trong bối cảnh tiền gửi tăng trưởng chậm hơn tín dụng, phát hành trái phiếu đang trở thành kênh hút vốn của các ngân hàng. Nhờ đó, họ vừa có thêm nguồn vốn để đáp ứng nhu cầu cho vay ngày càng lớn, vừa duy trì được chuẩn mực khắt khe về an toàn vốn.

Tin nâng hạng

Những thông tin liên quan đến việc nâng hạng thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam đang xuất hiện với tần suất khá dày trong những ngày qua và tất nhiên luôn được xem là tin tốt. Mặc dù vậy, nhà đầu tư (NĐT) cũng nên có kỹ năng phân tích, xử lý tin tốt để có thể giao dịch tối ưu.

Thời gian qua, giá vàng trong nước liên tục leo thang. Ảnh: MINH CHÂU

Nỗ lực để vàng không “ngủ yên trong két”

Giới chuyên gia nhận định, việc thành lập sàn giao dịch vàng quốc gia ở thời điểm này không chỉ đáp ứng nhu cầu đầu tư ngày càng đa dạng, mà còn là giải pháp quan trọng làm giảm độ "nóng" không cần thiết của thị trường vàng vật chất.

Nền tảng thị trường trái phiếu đang được củng cố, mở đường cho tăng trưởng trở lại.

Biến trái phiếu thành “hàng hiệu”

Thị trường trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) Việt Nam đang phục hồi tích cực sau giai đoạn biến động kéo dài, song vẫn đối mặt với nhiều thách thức. Các chuyên gia cho rằng, để lấy lại niềm tin nội địa và thu hút thêm dòng vốn đầu tư nước ngoài, cần một “cuộc đại tu” về chất lượng.

Thuê nhà xưởng đang được nhiều doanh nghiệp lựa chọn. Ảnh: NGUYỆT ANH

“Cởi trói” cho dòng vốn trung và dài hạn

Cho thuê tài chính đã hiện diện tại Việt Nam hơn 20 năm nhưng quy mô vẫn rất nhỏ, mới chiếm 0,28% tổng dư nợ tín dụng. Việc xây dựng luật riêng được kỳ vọng sẽ “cởi trói”, đưa kênh vốn này trở thành trụ cột mới trong cung ứng vốn trung và dài hạn cho doanh nghiệp.

Viettel đã có mặt tại gần 10 quốc gia, mang về hàng tỷ USD doanh thu quốc tế mỗi năm. Ảnh: VIETTEL

Doanh nghiệp Việt tăng tốc trên bản đồ đầu tư toàn cầu

Từ Viettel, FPT đến Vinamilk và TH True Milk, doanh nghiệp Việt đang ghi dấu ấn trên bản đồ đầu tư quốc tế. Làn sóng đầu tư ra nước ngoài không chỉ mở rộng thị trường và nâng cao năng lực cạnh tranh, mà còn đưa thương hiệu Việt vươn ra biển lớn.

Giao dịch tại MB bank. Ảnh: NAM ANH

Trao “đòn bẩy” vốn cho nhiệm vụ tái cơ cấu ngân hàng

Chính sách giảm 50% tỷ lệ dự trữ bắt buộc cho bốn ngân hàng đang thực hiện chuyển giao bắt buộc của Ngân hàng Nhà nước được giới chuyên gia đánh giá là “cú huých” thanh khoản mang tính chiến lược. Không chỉ giúp giải phóng hàng chục nghìn tỷ đồng vốn khả dụng, nó còn mở rộng dư địa tín dụng, tạo tác động lan tỏa tới nền kinh tế.