Hồn phố
Giếng Ngọc nghe kể đã có hơn 300 năm. Sau này cô đồng Hiếu còn kể, giếng trên đền Bạch Mã kinh trấn phía đông ở phố Hàng Buồm còn cổ hơn giếng Ngọc đến mươi phần. Cô hay lên hát trên đó và đã uống nước giếng đền. Có lẽ vì thế giọng hát cô mới trong như vậy. Nói mà như hát mới hay. Cô hay ngâm: “Nhớ hôm bên giếng chàng ơi/Chàng đưa mắt liếc em rơi cái gầu”.
Một kỷ niệm đầy ắp của tuổi trẻ chúng tôi với giếng ngày ấy là cảnh trai làng nhập ngũ. Tất cả ríu rít bên sân đình chuẩn bị lên đường. Khi bất ngờ có tiếng còi ô-tô, một nhóm thanh niên chạy vội ra giếng, vục nước lên uống.
Sau này có dịp đi nghe ca trù ở đền Bạch Mã, tôi càng thấy giếng cổ ở đây nước luôn đầy và trong vắt. Vào ngày lễ, phố Hàng Buồm bay bổng trong những câu ca. Người ngồi tràn cả ra sân đền, xúm xít bên thành giếng ăn trầu và nghe hát. Chè tươi nấu bằng nước giếng, có độ chát vừa phải và ngọt thơm.
Nếu giếng Ngọc được coi là mắt rồng thì giếng đền Bạch Mã được coi là rốn rồng, có tên là Long đỗ. Tuần trăng nào, mọi người cũng đến thắp hương cầu tài lộc. Tôi mê nhất bài “Văn cô Chín”. Giọng hát trẻ rung lên chao đảo sân đền: “Gió thu thoảng ngát hương lan/Trăng soi chín giếng nước vàng long lanh/Thanh hoa sơn thủy hữu tình/Có cô Chín Giếng anh linh khác thường…”.
Có lần tôi lên phố Lý Quốc Sư và Nhà Chung theo lời chỉ dẫn của ông Việt An, đã hơn 80 tuổi, ở số 3 Lý Quốc Sư. Ông nói quanh mấy phố cụm nhà thờ có nhiều giếng cổ lắm. Chợt nhớ nhà thơ Hoàng Cầm hồi còn sống, ở 43 Lý Quốc Sư, một thời lấy nước giếng phố để nấu rượu đãi khách. Nhà thơ cũng viết bài thơ “Tắm đêm”, có câu: “Tung tóe dội gầu trăng nước giếng/Mát lùa kẽ tóc”.
Không ít giếng đã bị lấp đi, may sao phía sau nhà thờ vẫn còn một giếng cổ. Ông Việt An nói từ nhỏ vẫn cùng mọi người ra đây múc nước về thổi cơm. Miệng giếng có nét hình cánh sen. Một số người kể, trong ngõ Tạm Thương phố Hàng Bông, xưa cũng có tới dăm giếng cổ, nay chỉ còn lại một chiếc ở nhà số 2. Chiếc giếng này đã từng bị lấp đi nhưng người chủ mới đến mua đất để xây khách sạn đã cho khơi và xây lại. Giờ đây khách tới ngồi bên giếng chờ đợi ai đó và uống cà-phê, gợi nét thanh bình của con ngõ đã ghi dấu ấn vào thơ của Chế Lan Viên: “Ngõ bảy thước mà lòng muôn dặm/Thương một đời đâu phải Tạm thương”. Nhưng có lẽ thú vị nhất với tôi là quán cà-phê giếng ở ngõ Hàng Chỉ. Ông An nói đây là chiếc giếng mà bà con làng Tô Tịch đào từ hồi còn đang hình thành phố cổ. Ngõ thông ra mấy phố liền nên giếng được coi là điểm hò hẹn thú vị với những bàn cà-phê xếp chung quanh. Vị cà-phê ở đây có độ đậm và hương thơm chính vì nước giếng đã được bà chủ lấy lên pha chế.
Những con mắt Hoàng thành
Hiện, còn những giếng cổ vẫn lưu giữ tại không ít nơi như cụm phố Phủ Doãn hay phố Hàng Trống hoặc Đường Thành và phố Hàng Bút. Có giếng vẫn được sử dụng như ở ngõ 86 Hàng Trống. Đó là những ngôi giếng cổ hơn 100 năm. Nhưng có lẽ những giếng ở Hoàng thành là lâu đời nhất. Hơn 10 chiếc giếng được khai quật ở khu vực Hoàng thành (18 Hoàng Diệu-Ba Đình), trong đó có hai ngôi giếng thuộc niên đại đời Đường (thời Bắc thuộc). Giếng đã được đào hơn 1.000 năm, hiện vẫn còn nước khi được khơi lại. Bên cạnh đó, còn có hai ngôi giếng thời Lý cùng với hai giếng thời Trần và ba giếng thời Lê. Những giếng còn lại thuộc triều Lê muộn và đầu thời Nguyễn.
Qua từng lớp bụi thời gian, giếng luôn nổi bật ở sự phối hợp hòa trộn nét văn hóa thời đại. Đặc biệt, những giếng này khi được khai quật lộ thiên nước trào lên trong vắt. Nhìn vạt nước dâng long lanh dưới ánh mặt trời, ngỡ như tôi mới gặp lại hình ảnh đồng quê: “Giếng khơi mưa ngập nước tràn/Ba gian nhà cả ba gian nắng chiều” (Qua nhà, Nguyễn Bính). Những viên gạch xếp nghiêng theo hình xương cá đời nhà Trần vẫn còn đỏ au. Một số đồ gốm sứ cũng được khơi lên từ lòng giếng, ẩn hiện của những thời kỳ lịch sử huy hoàng.
Mỗi giếng ở phố cổ Hà Nội mang một câu chuyện riêng với những ký ức không phai mờ. Giờ đây có những ngôi giếng vẫn được dùng như trước kia. Nó vẫn sóng sánh vị ngọt từ hơn trăm năm qua. Khi tôi được dẫn tới ngôi giếng ở số 6 phố Hàng Bút và được nghe kể chuyện về nó thật bất ngờ. Tuy đây không phải là giếng cổ nhưng lại gắn bó thân thiết với những người dân quanh vùng từ những ngày đầu toàn quốc kháng chiến (19/12/1946). Giếng được đào vào đầu xuân 1947 để phục vụ chiến sĩ Trung đoàn Thủ đô trong cuộc chiến đấu bảo vệ Hà Nội. Dân quanh vùng gọi là “Giếng Liên Khu Một”. Cuộc chiến đấu tại trung tâm mặt trận Thủ đô vùng chợ Đồng Xuân kéo dài suốt hơn 30 ngày đêm. Hình ảnh “Giếng Liên Khu Một” như được khơi lên từ mạch nguồn ông cha nghìn năm lịch sử.