(Tiếp theo và hết)
Theo kết quả khảo sát tình hình đời sống, việc làm, tiền lương của người lao động năm 2023 do Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam thực hiện, có tới 75,5% người lao động khẳng định thu nhập không đáp ứng đủ nhu cầu chi tiêu. Đáng nói, 17,3% công nhân được khảo sát phải thường xuyên… vay nợ. Mức đãi ngộ hiện tại là rào cản lớn để người lao động gắn bó lâu dài với doanh nghiệp, ngay cả khi họ thoát vết xe “sa thải mềm”.
Những mảng mầu đối lập
Gần đây, theo bản tin thị trường lao động của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (nay đã sáp nhập vào Bộ Nội vụ), thị trường lao động gặp nhiều khó khăn, khiến hàng triệu lao động bị ảnh hưởng. Đặc biệt, nhóm lao động lớn tuổi (35 đến hơn 40 tuổi) vô cùng chật vật khi tìm việc làm mới.
Còn theo kết quả khảo sát của Trung tâm Dự báo nhu cầu nhân lực và thông tin thị trường lao động Thành phố Hồ Chí Minh tại 2.000 doanh nghiệp trong quý IV/2024, các doanh nghiệp có nhu cầu tuyển dụng khoảng 4.200 lao động, trong đó nhu cầu tuyển dụng nhóm lao động dưới 25 tuổi chiếm 60,47%; nhóm 25-34 tuổi chiếm 34,59% và nhu cầu tuyển với độ tuổi 35-49 chỉ vỏn vẹn 4,94%.
Tại tổ 6 thị trấn Chi Đông (Mê Linh, Hà Nội), ven Khu công nghiệp Quang Minh, trên con đường ngắn chừng 100m có tới 5-6 điểm tư vấn tuyển dụng việc làm. Một tấm biển lớn, bạc phếch mầu, với nội dung “tuyển dụng đi làm luôn tại Công ty Elentec, công việc sản xuất linh kiện điện tử, sản xuất khung điện thoại” ghi rõ: Yêu cầu nữ 18-40 tuổi; lương ca ngày 250 nghìn đồng/11 giờ; lương ca đêm 290 nghìn đồng/giờ; chủ nhật ngày 430 nghìn đồng/11 giờ; chủ nhật đêm 480 nghìn đồng/11 giờ.
Với “hàng rào” tuyển dụng như vậy, ngay cả khi chấp nhận làm cả tuần không nghỉ, mỗi ngày tăng ca 3 giờ, những phụ nữ hơn 40 tuổi vẫn “không có cửa”!
Nhưng khi khảo sát tại các địa phương, thực tế được nhóm phóng viên ghi nhận rất khác. Hầu hết mọi nơi, từ Hải Phòng, Bắc Ninh đến Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh… đều đang “khát” lao động, sẵn sàng tuyển những công nhân hơn 40, thậm chí 50 tuổi.
Ông Thái Minh Sỹ, Phó Chủ tịch Liên đoàn Lao động tỉnh Nghệ An cho biết, hiện trên địa bàn tỉnh có hơn 15.500 doanh nghiệp hoạt động với gần 350 nghìn lao động. Nhu cầu tuyển lao động để tiếp tục phát triển công nghiệp của Nghệ An rất lớn, nhưng thị trường lao động không đáp ứng đủ. Theo kế hoạch tuyển dụng năm 2025, tỉnh đang “hụt chỉ tiêu” khoảng 42 nghìn người. Tại Thanh Hóa, hai năm qua thiếu khoảng 57 nghìn lao động.
Ông Sỹ nhìn nhận, tình hình đòi hỏi “phải có cách lôi kéo con em địa phương đi làm xa về xây dựng tỉnh nhà”. Ngay đợt Tết Nguyên đán Ất Tỵ, ngành lao động Nghệ An chủ trương phối hợp từng tổ dân phố đến tận nhà trao quà, thuyết phục những người đi làm công nhân ở phía nam về quê ăn Tết “ở nhà hẳn”. Đây cũng là phương án chung của các tỉnh lân cận như Thanh Hóa, Hà Tĩnh.
Làm được điều này không dễ. Ông Nguyễn Xuân Thái, Trưởng Phòng Lao động - Việc làm, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Hà Tĩnh (nay đã sáp nhập vào Sở Nội vụ) cho biết: Năm 2022, Hà Tĩnh có khoảng 33 nghìn lao động từ các tỉnh phía nam trở về do dịch Covid-19. Nhiều doanh nghiệp nắm thời cơ, đẩy mạnh tuyển dụng. Nhưng chẳng bao lâu, cả 33 nghìn người lại “rồng rắn” quay lại phía nam vì… lương thấp quá, chỉ khoảng 5 triệu đồng/tháng. Có doanh nghiệp ở Hà Tĩnh đặt chỉ tiêu tuyển 2.000 lao động nhưng rốt cuộc chỉ tuyển được… 5 người.
Việt Nam đã qua thời kỳ “dân số vàng”, bước vào thời kỳ già hóa dân số và đang thuộc tốp những quốc gia có tốc độ già hóa dân số nhanh nhất thế giới. Lực lượng lao động “co” lại, nhu cầu lao động tăng lên. Thêm nữa, nguyên lý “vết dầu loang” trong phát triển công nghiệp khiến những địa phương đi sau ngày càng cần nhân lực, khi nhiều khu, cụm công nghiệp được mở rộng. Sự dịch chuyển lao động, nếu diễn ra trên quy mô lớn, luôn đồng thời là niềm vui của địa phương này và nỗi lo của địa phương khác.
Theo quy luật kinh tế thị trường, lao động sẽ dồn về những nơi có thu nhập tốt. Nhưng mặt bằng chung về đãi ngộ của chúng ta đang rất thấp. Trong 8 quốc gia khu vực Đông Nam Á áp dụng lương tối thiểu, mức lương tối thiểu của Việt Nam chỉ cao hơn Lào và Campuchia. Đây chắc chắn là trở ngại để thu hút và giữ chân người lao động, nhất là lao động lớn tuổi.
Có một chi tiết chúng tôi nhớ mãi trong chuyến công tác tại Thanh Hóa. Đó là khi ông Nguyễn Minh Cảnh, Phó Chủ tịch Liên đoàn Lao động tỉnh cho biết: “Công nhân nhà mình không chịu ăn ca, thậm chí biểu tình, ngừng việc đòi bỏ bữa ăn ca. Dần dần sức khỏe không đáp ứng được, ảnh hưởng đến cả dây chuyền”. Hỏi ra mới biết, các nữ công nhân muốn đưa giá trị bữa ăn ca khoảng 20-25 nghìn đồng vào tiền lương để ky cóp lo chồng, lo con. Còn bản thân họ, bữa ăn ca là ít cơm, cá kho, bìa đậu trong chiếc cặp lồng mang đi từ nhà…
Trong từng bối cảnh, giai đoạn, nguy cơ mất việc của lao động hơn 35 tuổi là khác nhau. Vài năm qua, ở nhiều nơi, họ có thể không phải lo cả “đầu vào” lẫn “đầu ra” công việc. Nhưng nguy cơ bị thải loại chỉ tạm ẩn đi, chứ không biến mất. Rất nhanh, những lao động lớn tuổi sẽ trở lại hình hài yếu thế, dễ bị tổn thương nhất khi cả thế giới chao đảo vì “cuộc chiến thuế quan” vừa được Mỹ châm ngòi. Rất có thể bức tranh cơ hội việc làm tới đây sẽ không còn rộng mở với người lao động. Bởi vậy, ở bất cứ thời điểm nào, họ cũng luôn cần được bảo vệ.
Tại Hải Phòng, Liên đoàn Lao động thành phố đã chủ động nghiên cứu, khảo sát ra mức năng suất lao động khoảng 2 tỷ đồng/người/năm của công nhân trong Khu kinh tế Hải Phòng để làm cơ sở thương lượng, đàm phán với các doanh nghiệp, đi đến thống nhất mức lương thấp nhất 5,6 triệu đồng/người/tháng, cao hơn 20% so lương tối thiểu vùng 1. Đây cũng là địa phương có tới 30 doanh nghiệp FDI (nhiều nhất cả nước) ký kết thỏa ước lao động tập thể loại A, với 24 điều khoản đãi ngộ cao hơn mức quy định của Luật và hơn 10 nghìn lao động được thụ hưởng. Tuy nhiên, “điểm sáng” như ở Hải Phòng rất hiếm gặp trên cả nước.
Nâng cao “hàng rào kỹ thuật”
Thực tế đặt ra yêu cầu quan tâm, sâu sát hơn với người lao động. Lâu nay, Luật Lao động có những điều khoản rất cụ thể để bảo vệ họ, chẳng hạn quy định cấm phân biệt đối xử; giới hạn giờ làm thêm; bắt buộc doanh nghiệp có thay đổi từ hai lao động trở lên phải báo cáo cơ quan quản lý… Nhưng ở mọi nơi, chúng ta vẫn bắt gặp những tấm biển tuyển dụng giới hạn độ tuổi, làm thêm giờ tràn lan và những cuộc thải loại quy mô lớn. Trong khi họ, như những công nhân ở Thanh Hóa, vẫn đang ngày ngày ky cóp từng đồng để xoay xở với mức lương bèo bọt.
Có luận điểm cho rằng: Người lao động của ta phần lớn trình độ thấp, năng suất lao động thấp nên chỉ xứng đáng nhận thu nhập thấp. Điều này không đúng. Sự mập mờ khái niệm, đánh đồng năng suất lao động với thu nhập của người công nhân đưa đến những lầm tưởng. Theo Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM), năng suất lao động Việt Nam trong ngành dệt may đứng tốp đầu thế giới. Tại Bắc Ninh, 300 nghìn công nhân trong các khu công nghiệp mỗi năm tạo ra hơn 1 triệu tỷ đồng, tính trung bình khoảng 3,5 tỷ đồng/người/năm. Nhưng thu nhập bình quân của họ chỉ khoảng 100-120 triệu đồng/năm. Tất nhiên, trong cơ cấu sản xuất còn nhiều thành tố như vốn, công nghệ, máy móc…, nhưng mức chênh quá xa (tới vài trăm lần) giữa giá trị bình quân tạo ra với thu nhập bình quân của người lao động là minh chứng cho thấy công nhân Việt Nam đang bị “dìm giá”, với “mỏ neo” là mức lương tối thiểu.
Nhiều chuyên gia cho rằng, nếu đòi mức thu nhập cao hơn, công nhân Việt Nam sẽ mất lợi thế “lao động giá rẻ” vào tay các nước cạnh tranh trực tiếp như Philippines hay Bangladesh. Nguồn vốn FDI sẽ chảy đi. Nhưng “giá rẻ” không phải tất cả vấn đề. Chất lượng sản phẩm mới là mấu chốt. Bà Bùi Thị Ngọc, Phó Chủ tịch Thường trực Liên đoàn Lao động TP Hải Phòng kể: Công ty TNHH May Việt Hàn (huyện Kiến Thụy) từng chuyển cơ sở sản xuất ra nước khác vì người lao động đòi tăng lương. Nhưng chỉ sau nửa năm, họ phải… quay về khi các đơn hàng xuất châu Âu bị lỗi, trả lại rất nhiều.
Thực tế cho thấy người lao động Việt Nam nói chung có tay nghề, tỉ mỉ, khéo léo, chịu khó và sáng tạo, tuy vậy lại bị cái mác “lao động giá rẻ” làm giảm giá trị. Thế mới có chuyện ở Đà Nẵng, rất nhiều công nhân của Công ty TNHH Điện tử Foster có bằng đại học nhưng phải… giấu đi thì mới được tuyển, do doanh nghiệp không muốn mất thêm 7% lương cho lao động qua đào tạo. Xưa nay, các cuộc đấu tranh đòi quyền lợi của công nhân đều ít nhiều đem lại kết quả. Điều đó cho thấy, doanh nghiệp hoàn toàn có thể tăng đãi ngộ cho người lao động mà không ảnh hưởng nhiều đến biên độ lợi nhuận. Tất nhiên, đó là một hành trình rất gian nan, vướng đủ phương thức ngăn trở, trì hoãn. Đôi khi, sự ngăn trở không chỉ đến từ “giới chủ”.
“Lương trả đúng không phải là mức tối thiểu người công nhân đành phải nhận để sinh sống. Lương trả đúng phải là tiền lương cao nhất mà doanh nghiệp có thể trả”, triết lý được Henry Ford (người sáng lập Tập đoàn Ford Motor, Mỹ) đưa ra đầu thế kỷ 20, sau này được thừa nhận là động lực phát triển với nền kinh tế thị trường toàn thế giới. Còn ở Trung Quốc, việc nâng mức lương tối thiểu từ 690 tệ/tháng năm 2006 lên 2.600 tệ/tháng vào năm 2021 không làm giảm mà ngược lại còn giúp tăng thu hút đầu tư, tăng năng suất lao động. Trong khi đó, Nhật Bản, Hàn Quốc lại có nhiều chính sách thiết thực hỗ trợ doanh nghiệp trong nỗ lực giữ chân lao động lớn tuổi.
Bà Nguyễn Thị Quyên, Phó Cục trưởng Việc làm, Bộ Nội vụ đề xuất chín nhóm giải pháp nhằm giải quyết “khoảng trống” lao động sau tuổi 35. Trong đó có nghiên cứu, đề xuất sửa đổi các chính sách việc làm, bảo hiểm thất nghiệp hỗ trợ lao động lớn tuổi trong thời gian tìm việc mới; tăng cường, đa dạng hóa các hình thức kết nối cung cầu lao động, đặc biệt ưu tiên lao động lớn tuổi và lao động nữ; tăng cường đào tạo chuyển đổi, nâng cao kỹ năng cho lao động lớn tuổi, tập trung vào kỹ năng số và công nghệ...
Tất cả những giải pháp ấy là cần thiết, nhưng căn cơ, mấu chốt nhất vẫn là chuyện thu nhập. Nước ta đi lên từ nông nghiệp, nên trong giai đoạn đầu công nghiệp hóa, cần dùng lợi thế “lao động giá rẻ” để thu hút đầu tư FDI. Dù là giá rẻ, khi ấy công việc trong nhà máy cũng cho thu nhập tốt hơn nhiều so làm nông. Nhưng hiện tại, đất nước và xã hội đã bước sang kỷ nguyên mới, bối cảnh thu hút vốn FDI và cơ cấu ngành trong phát triển công nghiệp đã khác. Để “vươn mình”, nhất thiết phải tăng năng suất lao động. Tăng thu nhập làm tăng năng suất là “định lý” được thừa nhận trên thế giới. Như vậy với Việt Nam, đã đến lúc thay đổi khái niệm “lao động giá rẻ”, nâng đãi ngộ cho người lao động lên mức xứng đáng với những gì họ tạo ra.
Suốt lịch sử hình thành và phát triển, giai cấp công nhân Việt Nam luôn có vai trò to lớn trong tiến trình bảo vệ, kiến thiết đất nước. Với bối cảnh hiện nay, việc xây dựng, nâng cao những “hàng rào kỹ thuật” để chăm lo, bảo vệ công nhân, nhất là lao động lớn tuổi trở thành yêu cầu bức thiết, là mối quan tâm của toàn xã hội. Để lấp đầy khoảng trống lao động sau tuổi 35, cần nhiều hơn những bước chân đồng thuận. Nếu chưa thể, hãy bảo đảm quyền đấu tranh tự bảo vệ quyền lợi của mình cho họ!