Trong số hơn 20 cuộc trả lời phỏng vấn ở thời điểm này, Bác dành 19 cuộc trả lời tất cả câu hỏi của các hãng thông tấn, báo chí nước ngoài chung quanh chủ đề về thực tại tình hình cuộc kháng chiến của nhân dân ta chống thực dân Pháp xâm lược cùng đường lối đối nội, đối ngoại của Nhà nước ta. Đặc điểm nổi bật nhất trong các bài trả lời của Bác là ngắn gọn, đề cập trực tiếp các vấn đề nhà báo nêu ra, thể hiện lập trường nhất quán, công khai, minh bạch về những vấn đề đối nội, đối ngoại của Việt Nam. Mặc dù có một số câu hỏi “hóc búa”, hoặc thiếu thiện chí của số ít nhà báo phương Tây, Bác vẫn bình thản trình bày sự thật một cách thành thật và khéo léo, làm cho đối phương chẳng những không mất lòng, mà còn tâm phục, khẩu phục thật sự.
Tháng 9/1947, trong cuộc trả lời phỏng vấn nhà báo Mỹ S.Êli Mâysi về 9 vấn đề “đại sự”, nhưng Bác đã vui vẻ trả lời đầy đủ. Tôi coi đây là một trong những bài tiêu biểu, đáp ứng mong muốn của các nhà báo quốc tế lúc đó rất muốn biết một trong nhiều sự kiện Nhà nước ta đánh giá vai trò, thái độ của ông Vĩnh Thụy (Bảo Đại); thông qua đó hiểu được chủ trương, đường lối đối nội và đối ngoại của Việt Nam. Vì vậy, xin phép được trích ra đây toàn văn nội dung:
1. Hỏi: Thưa Chủ tịch, vấn đề Việt Nam có nên coi như một vấn đề quốc tế không? hay chỉ nên coi như là một vấn đề Việt - Pháp trong khối Liên hiệp Pháp?
Đáp: Cái đó còn tùy hoàn cảnh sau này. Nếu chiến sự cứ tiếp tục, vấn đề Việt Nam nhất định trở nên vấn đề quốc tế. Nhưng nếu hai bên Việt và Pháp có thể thỏa thuận với nhau để mau chấm dứt cuộc chiến tranh, vấn đề Việt Nam chỉ còn giữa nước Pháp và Việt Nam thôi.
2. Hỏi: Ngài có cho rằng giữa nước Việt Nam và Chính phủ Pháp còn có thể thỏa hiệp được không?
Đáp: Rất có thể có sự thỏa hiệp, với điều kiện là nước Pháp thành thực công nhận thống nhất và độc lập của nước Việt Nam trong khối Liên hiệp Pháp.
3. Hỏi: Nếu có một cuộc điều đình với nước Pháp, thì Việt Minh sẽ sẵn sàng hợp tác với những phần tử Việt Nam nào?
Đáp: Cuộc kháng chiến là một vấn đề sinh tử của dân tộc Việt Nam. Đó không phải là vấn đề đảng phái. Chính phủ Việt Nam gồm một đa số các người không đảng phái và một thiểu số đại biểu các đảng ái quốc trong số đó Việt Minh chiếm con số rất nhỏ.
4. Hỏi: Theo ý Ngài, ông Vĩnh Thụy có đủ tư cách để điều đình với người Pháp không?
Đáp: Ông Vĩnh Thụy là Cố vấn trong Chính phủ Dân chủ Cộng hòa Việt Nam đã tuyên thệ trung thành trước Quốc hội, trước chính phủ và trước quốc dân. Ông ta chỉ có tư cách đứng ra điều đình khi nào được Chính phủ Cộng hòa Việt Nam ủy quyền.
5. Hỏi: Trước những tin đồn rằng Bảo Đại hiện nay chịu ảnh hưởng của người Mỹ, Ngài nghĩ sao?
Đáp: Tôi chả nghĩ gì cả. Những tin đồn là những tin đồn. Xin để người Pháp kiểm soát lại những tin đồn đó.
6. Hỏi: Tại sao từ trước tới nay, Ngài không thử đem vấn đề Việt Nam ra trước Liên hợp quốc?
Đáp: Ấy vì chúng tôi còn tin tưởng vào sự khôn ngoan của dân chúng Pháp.
7. Hỏi: Nếu cuộc điều đình không tiếp tục lại một ngày gần đây, Chính phủ Ngài sẽ định thái độ ra sao?
Đáp: Chúng tôi sẽ tiếp tục tranh đấu cho tới khi nào giành được thống nhất và độc lập cho Tổ quốc chúng tôi.
8. Hỏi: Ngài có tin rằng nước Việt Nam độc lập có thể làm tròn nhiệm vụ do địa thế quân sự rất quan trọng của nước Ngài tại Đông Nam Á châu đặt ra không?
Đáp: Tôi hoàn toàn chắc chắn làm được.
9. Hỏi: Ngài cho biết những đại cương chính sách đối ngoại của nước Việt Nam (thứ nhất là dựa theo tình thế quốc tế hiện giờ)?
Đáp: Làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai.
10. Hỏi: Thưa Chủ tịch, thật là một điều đại vinh hạnh cho tôi đã được Chủ tịch trả lời những câu hỏi trên đây. Nhân tiện tôi xin tỏ lòng cảm ơn Ngài, cũng tỏ lòng thành kính đối với Ngài, lòng thành kính mà tôi đã có từ ngày gặp Ngài trên đất Pháp, tại khách sạn Môngxô.
Đáp: Tôi gửi Ngài lời chào thân ái. (trang 219) (1)
Bài trả lời phỏng vấn nêu trên thể hiện sự uyên thâm trong đánh giá bản chất các vấn đề người hỏi nêu ra, nghệ thuật tinh tế trong diễn đạt; sự trình bày có tính thực tiễn và logic - tất cả những yếu tố ấy đã hoàn toàn chinh phục các nhà báo muốn tìm hiểu chính sách đối ngoại của nước ta (trong tình hình mà một số người lúc đó muốn ta nên điều đình với Pháp để đứng trong khối Liên hiệp Pháp; một vài người khác lại muốn dựa vào Mỹ để gây ảnh hưởng lên Pháp; số ít có khuynh hướng nên nhờ Liên hợp quốc đứng ra hòa giải). Với những câu hỏi và nội dung Bác trả lời, chúng ta luôn thấy Bác Hồ giữ vững tính nguyên tắc (khi dùng từ chắc chắn là như vậy), tính mềm dẻo (khi dùng từ có thể nhưng với điều kiện nhất định). Tôi đặc biệt có ấn tượng sâu sắc khi ngay từ những ngày trứng nước ấy, Bác đã nêu một phương châm đối ngoại rất đúng đắn và hợp thời cuộc không chỉ lúc đó, mà có tính chiến lược dài lâu. Theo đó, Việt Nam “làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai”. Luận điểm này đã và đang được Đảng, Nhà nước ta sau này thừa kế, phát triển; và nhờ nó, ta đã kết hợp tốt sức mạnh của dân tộc và sức mạnh thời đại trong công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc từ ngày lập nước (2/9/1945) đến nay.
Về đối nội, các nhà báo trong nước và nước ngoài cũng đặc biệt quan tâm. Có nhà báo hỏi: “Xin Chủ tịch cho ý kiến của Chủ tịch về kinh nghiệm trong một năm kháng chiến toàn quốc vừa qua, về phía bên Pháp và phía bên Việt Nam” Bác khẳng định: Về phía Pháp thì kinh tế ngày càng kiệt quệ, quân sự ngày càng khó khăn. Về phía ta thì nhân dân ngày càng đoàn kết, quân đội ngày càng tiến bộ. Cũng như trèo núi, Pháp thì xuống dốc có vẻ mạnh bạo, ào ạt, nhưng gần rơi xuống hố. Ta thì lên dốc, có vẻ khó nhọc, gian nan, nhưng càng trèo càng lên đến chỗ thanh cao. Khi hỏi về triển vọng năm tới, Bác một lần nữa khẳng định: “cuộc kháng chiến có thể gay go hơn. Mà ngày thắng lợi của ta cũng đến gần hơn” (trang 327).
Như vậy, Bác không hề “vòng vo tam quốc”, mà nói gọn, nói đúng tình hình, thông qua cách ví von bằng hình ảnh có sức thuyết phục cao, tranh thủ sự đồng tình rộng rãi của dư luận báo chí. Và, đây là cuộc trả lời ngắn gọn với báo France Soir (ngày 28/2/1949) chung quanh việc đánh giá của Bác đối với Bảo Đại về “những điều lợi mà Bảo Đại đã thu được ở Hạ Long, Can nơ và Ba Lê có làm thỏa mãn nguyện vọng Việt Nam”, Bác nói rõ lập trường có tính nguyên tắc: “Chỉ có độc lập thật sự và thống nhất thật sự mới có thể làm thỏa mãn nguyện vọng Việt Nam”. Khi hỏi “giữa Chính phủ Chủ tịch với Bảo Đại có thể có thỏa ước hay không?”, Bác nói dí dỏm: “Trong một nước, làm gì có thỏa ước giữa một tư nhân công dân với Chính phủ do toàn dân cử ra” (trang 568). Khi ông Oan tơ Brít hỏi: “Cụ có phải là một người cộng sản nữa không?”, Bác không nói “có” hay “không” mà giải thích rất khéo: “Tôi luôn luôn là một người yêu nước, tranh đấu cho độc lập và thống nhất thật sự của Tổ quốc tôi”. Suy rộng ra thì đây cũng là lý tưởng và mục tiêu của người cộng sản. Nhà báo ấy lại hỏi: “Việt Nam công khai tuyên bố rằng trong 24 vị trong Chính phủ, 4 vị là cộng sản. Thế thì 4 vị ấy có ảnh hưởng đặc biệt, hay là cũng như các vị khác?” Bác khẳng định: “Tất cả các Bộ trưởng Chính phủ Việt Nam đều cộng đồng phụ trách và ảnh hưởng quân bình”. Hỏi: “Ở Việt Nam có tự do ngôn luận không (ngoài những ngôn luận phản quốc và thân thực dân Pháp)?” Bác khẳng định: “Có”.
Tháng 3/1949, có nhà báo quốc tế do cảm tính nghe theo những luận điệu không hay về cuộc chiến tranh chính nghĩa của ta, hỏi Bác: “Cuộc chiến tranh này có phải là một sự uy hiếp cho hòa bình thế giới không?” Bác điềm nhiên trả lời: “Thực dân Pháp luôn uy hiếp hòa bình thế giới. Nền độc lập của dân tộc Việt Nam luôn luôn là để củng cố hòa bình thế giới”. Họ lại hỏi: “Vì lẽ gì mà Việt Nam thành công về mặt quân sự?” Bác trả lời: “Vì toàn dân đại đoàn kết để chống thực dân Pháp và để tranh lấy thống nhất và độc lập thật sự cho Tổ quốc mình” (trang 577).
Tháng 4/1949, báo Tribune phỏng vấn Bác: “Thưa Chủ tịch, lâu nay sức khỏe của Người thế nào?”, Bác nói vui: “Cảm ơn quý báo. Lúc này tôi khỏe hơn năm ngoái nhiều, năm nay có thể đi bộ 40 cây số thong thả”. Hỏi: “Chính phủ Việt Nam có bằng lòng cho phép các đại biểu ngoại quốc đến thăm vùng tự do không?” Đáp: “Chúng tôi rất hoan nghênh những đại biểu báo ngoại quốc mà ngôn luận công bằng. Thường vẫn có phóng viên ngoại quốc đến thăm vùng tự do”. Hỏi: “Gần đây, các báo Pháp có đăng tin Quân giải phóng Trung Hoa hợp tác với quân đội Việt Nam ở biên giới Bắc Bộ, tin ấy có đúng hay không?” Bác thẳng thừng bác bỏ: “Không đúng. Ai cũng biết rằng thực dân Pháp thường bịa đặt những tin tức giả dối để che đậy sự thất bại của chúng” (trang 587).
Nhân dịp sinh nhật Bác, trong số các câu hỏi của báo Cứu Quốc gửi tới Bác, có câu: “Thưa Chủ tịch, ngày 19/5 vừa rồi, tuy Chủ tịch không muốn đồng bào kỷ niệm to, nhưng đâu đâu cũng kỷ niệm long trọng, chắc Chủ tịch nhận được nhiều quà quý lắm?”, Bác vui vẻ trả lời: “Món quà quý nhất đối với tôi là những báo cáo thành tích Thi đua ái quốc”… “Nhưng tôi chắc món quà ấy mới là một phần nhỏ, đồng bào và chiến sĩ ta còn tiếp tục cố gắng, tôi sẽ nhận món quà to hơn nhiều nữa, món quà đó tên là: Tổng phản công thắng lợi hoàn toàn” (trang 628).
Từ giữa năm 1949, quân và dân ta tích cực chuyển giai đoạn từ cầm cự sang giai đoạn phản công, rất nhiều nhà báo quốc tế muốn tìm hiểu những “bí quyết” của chủ trương này. Xin trích đoạn nhà báo Mỹ A. Steele phỏng vấn Bác:
Hỏi: Có cách dàn xếp nào không bắt Pháp phải rút quân không? Nếu có thì theo những điều kiện gì?
Trả lời: Quân đội Pháp rút khỏi Việt Nam là điều kiện chính để dàn xếp.
Hỏi: Có thể có cách giải quyết nào trong khuôn khổ Liên hiệp Pháp không?
Trả lời: Có, nếu Liên hiệp Pháp được tổ chức trên nền tảng dân chủ và bình đẳng.
Hỏi: Có thể có một cách giải quyết nào có Bảo Đại tham dự không?
Trả lời: Chúng tôi không cần gì đến bọn bù nhìn.
Hỏi: Những phần tử nào ủng hộ Bảo Đại?
Trả lời: Bọn bù nhìn và bọn phản quốc.
Hỏi: Hiện nay ở Việt Nam, Việt Minh kiểm soát được bao nhiêu phần đất đai? Và bao nhiêu dân chúng?
Trả lời: Trừ một vài thành phố lớn bị bọn xâm lược Pháp chiếm đóng, hầu hết đất đai Việt Nam đều do Chính phủ Việt Nam kiểm soát.
Hỏi: Việt Nam có được cộng sản Trung Hoa giúp đỡ về vật chất không? Nếu không, Việt Nam có hoan nghênh một sự giúp đỡ như thế không?
Trả lời: Không có sự giúp đỡ nào của Trung Hoa cả. Nếu Trung Hoa sẵn lòng giúp việc đó sẽ xét sau (trang 693-695).
Tóm lại, bằng trí tuệ thông minh và sự sâu sát tình hình trong nước và thế giới; với nghệ thuật trả lời khi cần giữ vững lập trường, nguyên tắc; khi cần mềm dẻo để tranh thủ báo chí - một lực lượng rất quan trọng trên lĩnh vực tư tưởng, tuyên truyền, Bác Hồ thật sự là đỉnh cao của trí tuệ, nhân văn. Trong nhiều di sản quý giá mà Bác để lại, có di sản về tư tưởng nhân văn và nghệ thuật sử dụng báo chí, mà nhờ nó, ví như cuộc đàm phán 4 bên ở Pa-ri về vấn đề lập lại hòa bình ở Việt Nam (kéo dài từ 1968-1973), chúng ta đã thắng lợi; góp sức dẫn đến Đại thắng mùa xuân năm 1975, thu non sông về một mối.
Hà Nội, 20/9/2021
1. Các trích dẫn trong bài này đều lấy từ Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5 NXB Chính trị quốc gia, H.2009.