Tiếp nối tinh hoa nghề khắc mộc bản

Khắc mộc bản là một nghề thủ công tập hợp nhiều nét tinh hoa, nhất là khắc chữ Hán Nôm đòi hỏi người nghệ nhân không chỉ cần khéo nghề mà còn phải thành thạo chữ cổ. Xưa kia, ba làng Thanh Liễu, Liễu Tràng và Khuê Liễu (Hải Dương) là đất tổ nghề khắc mộc bản, được Thám hoa Lương Như Hộc truyền nghề. Nghề khắc mộc bản qua thời gian đã gần như mai một, nhưng có một nghệ nhân trẻ đang cố gắng tiếp nối nghề của cha ông để lại, góp phần khôi phục làng nghề.
Nghệ nhân trẻ Nguyễn Công Đạt say mê với công việc khắc mộc bản.
Nghệ nhân trẻ Nguyễn Công Đạt say mê với công việc khắc mộc bản.

Hôm nay, nghệ nhân Nguyễn Công Đạt tạm gác mọi công việc để lên chùa Trăm Gian (huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương) tìm hiểu các bản kinh cổ. Nhưng thay vì xem các bản kinh, Nguyễn Công Đạt xem kỹ các trang đầu, trang cuối sách để tìm một chi tiết đặc biệt khác.

Nối nghiệp khắc mộc bản xưa

Nguyễn Công Đạt cho biết: “Có một chi tiết mà mọi người thường không để ý là trong các bản kinh và sách cổ dùng kỹ thuật in mộc bản đều có phần viết về người biên soạn, người viết và người khắc các bản in đó. Phần này thường được các cụ in ở trang đầu hoặc trang cuối của sách. Qua đó mà tôi biết được những thông tin về làng Thanh Liễu, nơi phát tích của nghề khắc mộc bản”.

Đạt cho tôi xem một số tư liệu, ở đó ghi rõ tên người khắc chữ, quê quán, năm tạo sản phẩm. Đến giờ, Đạt đã tìm được đến hơn 160 nghệ nhân quê Thanh Liễu có tên trên những bản kinh, bản sách cổ. Ngắm nét chữ của người xưa cũng là động lực để Đạt nỗ lực hơn.

Khi công nghệ in ấn chưa phát triển, để có một trang sách, người xưa phải khắc chữ dương bản ngược lên một tấm ván, sau đó phết mực và in ra. Ngay cả các làng tranh dân gian cũng phải dựa vào những bản khắc gỗ do các làng nghề khắc gỗ cung cấp. Thám hoa Lương Như Hộc (1420-1501) chính là ông tổ của nghề khắc mộc bản do có công truyền dạy cho dân ba làng: Hồng Lục (tức Thanh Liễu), Liễu Tràng, Khuê Liễu (nay đều thuộc thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương).

Thời đó, người dân các làng nghề này gần như “làm chủ” nghề in của cả miền bắc. Nghề khắc ván in sách đã đem lại cuộc sống khá giả cho nên mới có câu: “Đình Sinh, quán Sếu, chùa Tràng/ Trong ba làng ấy không làm cũng có ăn” (Sinh, Sếu, Tràng là tên Nôm của ba làng: Hồng Lục, Liễu Tràng, Khuê Liễu). Khi kỹ thuật in của phương Tây du nhập vào nước ta, nghề khắc mộc bản dần mai một. Thanh Liễu có ngôi đình thờ Tổ nghề Lương Như Hộc, nhưng di tích này đã bị phá hủy trong thời kỳ tiêu thổ kháng chiến. Những hào quang một thuở vì thế càng phai mờ. Sau này, người ta chỉ còn biết là trong làng có vài người làm nghề khắc dấu.

Nguyễn Công Đạt sinh năm 1992 ở làng Thanh Liễu. Từ khi ba, bốn tuổi Đạt đã mê vẽ. Từ khi còn rất bé, cứ có chỗ nào là Đạt vẽ rồng, vẽ phượng. Lớn lên, Đạt cũng chỉ biết mang máng rằng làng mình có nghề khắc gỗ cổ truyền. Sau này, Đạt học ngành Thiết kế nội thất (Đại học Mở Hà Nội). Đó cũng là lúc Đạt bắt đầu mày mò tự học khắc dấu.

Tốt nghiệp đại học, Đạt vẫn gắn bó với trang trí mỹ thuật truyền thống, nhất là nghệ thuật đắp nổi các linh thú, hoa văn cho đình chùa, nhưng dường như nghiệp khắc mộc bản đã vận vào người, Đạt trở về quê hương với việc luyện nghề khắc gỗ…

Khắc gỗ đúng lối Thanh Liễu có nhiều khác biệt. Dụng cụ quan trọng nhất của người thợ là con dao ngang là loại dao khắc có lưỡi lõm vào tạo thành một đường cong hình bán nguyệt. Với khắc chữ, người ta viết lên giấy dó, dán giấy có viết chữ lên bề mặt gỗ rồi chà cho giấy bay đi, chỉ phần mực còn lại trên gỗ. Công đoạn này gọi là bắt mực sang gỗ.

Sau đó, phần việc quan trọng nhất mới bắt đầu. Công việc không cho phép sai sót. Lưỡi dao đi dọc theo các nét mực viết chữ, khoét sâu xuống vừa độ. Cũng lưỡi dao ấy sẽ lấy đi những phần gỗ thừa, dần dần để lại những ký tự chữ Hán viết ngược nổi lên. Có những nét chấm, nét phẩy chỉ bằng đầu hạt gạo. Công việc tỉ mỉ, đòi hỏi sự cẩn thận cao nhất bởi một nét dao quá tay có thể khiến chữ biến dạng, phải làm lại toàn bộ bản khắc.

Nhiều người thấy Đạt khắc tranh, khắc chữ đẹp cho nên gặng hỏi anh học ở thầy nào. Nhưng thật ra, Đạt tự học bằng tình yêu, bằng sự tìm hiểu, tự nghiên cứu khi xem lại những bản khắc xưa. Để có thể làm tốt công việc của mình, Đạt quyết định học chữ Hán. Và chính việc học chữ Hán đã giúp Đạt không chỉ khắc được cái hình, mà chuyển tải được cả hồn của những con chữ.

Hơn thế, đọc được những văn bản chữ Hán giúp anh biết thêm những câu chuyện cũ như người thợ Thanh Liễu ghi dấu công việc của mình ở hầu như khắp các ngôi chùa lớn ở miền bắc, từ xứ Đông cho đến xứ Đoài…

Ngay cả bộ sách lừng danh của Henri Oger-Kỹ thuật người An Nam-xuất bản hồi đầu thế kỷ 20 cũng có đóng góp lớn của những người thợ Thanh Liễu. Trong đó, các tư liệu còn ghi rất rõ, cụ Nguyễn Văn Đãng là một trong những người có nhiều đóng góp.

Đạt cho biết thêm: “Lâu nay, mọi người cứ nghĩ thợ Thanh Liễu chỉ đi khắc thuê theo yêu cầu. Nhưng khi biết chữ Hán, em đọc được các văn bản cổ cho biết các cụ không đơn thuần là người khắc thuê, nhiều cuốn sách do các cụ trong làng làm gần như toàn bộ các công đoạn: Soạn văn, viết, khắc chữ và đóng sách”.

Trả lại tên cho làng nghề

Nghệ nhân Nguyễn Công Tráng là một người thợ lâu năm ở Thanh Liễu. Cha của ông, cụ Nguyễn Công Hành là một người thợ khắc có tiếng trước kia. Ông nhớ lại: “Cụ nội tôi từng tham gia khắc kinh ở chùa Vĩnh Nghiêm. Như bố tôi kể lại thì cụ phải ở trên đó đến mấy năm”. Nhưng đến thời ông thì công việc ít dần. Ngày càng ít người làm nên ngay cả thuật ngữ khắc mộc bản cũng xa lạ với người dân nơi đây.

Nguyễn Công Đạt nghe một số cụ nói Lương Như Hộc vốn là người gốc Thanh Liễu, dù miếu làng Thanh Liễu thờ cụ và ba vị khác, nhưng lại thiếu bằng chứng thuyết phục. Trong khi đó, các nguồn thông tin thời hiện đại lại có sự nhầm lẫn về địa danh. Một số cuốn sách cho rằng làng Hồng Lục chính là làng Liễu Tràng. Một số lại ghi hai làng Hồng Lục, Liễu Tràng là hai làng khác nhau, nhưng lại bỏ quên cái tên Thanh Liễu.

Những kiến thức về Hán Nôm đã giúp cho Nguyễn Công Đạt tìm được câu trả lời cho những khuất khúc về tư liệu lịch sử này.

Tấm bia số 1 tại Văn Miếu-Quốc Tử Giám ghi rõ quê quán cụ Lương Như Hộc là làng Hồng Lục, huyện Trường Tân, phủ Hạ Hồng (phủ Hạ Hồng là một phần tỉnh Hải Dương ngày nay). Tuy làng Thanh Liễu bị phá mất ngôi đình, các tư liệu lịch sử cũng mất theo, nhưng cuốn Ngọc phả tổ sư-cuốn sách cổ ghi về cụ tổ nghề khắc mộc bản và một số sắc phong bên làng Khuê Liễu (một trong số ba làng nghề được cụ Lương Như Hộc truyền nghề) đều ghi rõ sự thay đổi địa danh thôn Hồng Lục được đổi thành Thanh Liễu vào năm Tự Đức thứ 3 (tức năm 1850).

Nguyễn Công Đạt đem những tư liệu này đi tham khảo nhiều nhà nghiên cứu như: Giáo sư Lê Văn Lan, nhà sử học Dương Trung Quốc, nguyên Giám đốc Sở Văn hóa-Thông tin tỉnh Hải Dương Tăng Bá Hoành… Nguyễn Công Đạt bảo rằng, bản thân chỉ là một nghệ nhân nhưng vẫn muốn làm sáng tỏ nguồn gốc nghề cổ, nhưng rất may anh đều được các nhà khoa học gặp mặt, cho những lời khuyên hữu ích. Các nhà khoa học đều công nhận sự nhầm lẫn này và động viên Đạt phải cố gắng góp sức khôi phục làng nghề.

Muốn làm mọi thứ từ gốc cho nên song song với rèn luyện kỹ thuật khắc mộc bản, nghe nói bất cứ nơi nào có tài liệu khắc chữ xưa, Đạt đều tìm đến. Ở nhiều ngôi chùa còn lưu giữ lượng kinh cổ, hay bản in kinh như: Vĩnh Nghiêm (Bắc Giang), Bổ Đà (Bắc Giang), Bà Đá… đều có những bản kinh ghi rõ do các nghệ nhân Hồng Lục-Thanh Liễu san khắc.

Mới đây, Nguyễn Công Đạt còn tìm được chứng cứ về tư liệu mộc bản của Trường học/Thư viện Phúc Giang (huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh, nơi gắn với những đóng góp của dòng họ Nguyễn Huy về phát triển văn hóa, giáo dục) - di sản tư liệu ký ức thế giới của UNESCO khu vực châu Á-Thái Bình Dương do nghệ nhân Nguyễn Huy Vượng, người làng Hồng Lục thực hiện việc san khắc năm 1758.

Sau một thời gian bị lãng quên, ngày càng có nhiều người tìm về những giá trị di sản. Nhiều đơn vị, nhà chùa hoặc tư nhân muốn phục chế những sách cổ, nhất là những tờ bị rách nát, thất lạc; nhiều người chơi tranh in khắc, hay chơi chính tranh khắc bằng gỗ…

Những sự kiện ấy diễn ra cùng lúc với việc làng nghề Thanh Liễu được trả lại tên khiến cho nghề khắc mộc bản từng bước hồi sinh. Từ chỗ chỉ có một, hai người biết khắc dấu và phải làm thêm các nghề khác thì giờ ngày càng nhiều người ở đây đã khắc tranh, khắc chữ Hán Nôm.

Nghệ nhân Nguyễn Công Tráng chia sẻ: “Nghề khắc mộc bản đòi hỏi sự công phu rất lớn, ngay từ khâu chuẩn bị, chế biến nguyên liệu như chọn gỗ, xẻ ván, ngâm tẩm, hong khô… rồi mới đến công đoạn khắc ván. Bây giờ làng Thanh Liễu được biết đến nhiều hơn. Có cả những vị khách nước ngoài cũng tìm về với Thanh Liễu. Chúng tôi rất kỳ vọng lớp trẻ sẽ kế thừa và tiếp tục phát huy truyền thống của làng nghề sau bao năm bị chìm vào quên lãng”.

Có thể bạn quan tâm

Liên hoan phim Nhật Bản tại Việt Nam 2025

Liên hoan phim Nhật Bản tại Việt Nam 2025

Theo thông tin từ Quỹ Giao lưu Quốc tế Nhật Bản (The Japan Foundation) tại Việt Nam, Liên hoan phim Nhật Bản 2025 sẽ diễn ra từ ngày 12/12/2025 đến 25/1/2026 tại Hà Nội, Hải Phòng, Thành phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng.

Bìa tác phẩm "Huyền thoại thổ thần".

"Huyền thoại thổ thần" - dấu ấn mới của văn học fantasy Việt Nam

Công ty Cổ phần Sách điện tử Waka phối hợp Appota vừa giới thiệu tới bạn đọc tiểu thuyết "Huyền thoại thổ thần" của tác giả Nguyễn Thái Duy. Đây là một trong những dự án fantasy hiếm hoi của văn học Việt được xây dựng như một "vũ trụ" độc lập, kết hợp thần thoại, thổ dân và công nghệ ở quy mô lớn.

Tọa đàm góp phần thúc đẩy giao lưu văn hóa, củng cố quan hệ hợp tác Việt-Pháp, đồng thời khẳng định tiềm năng phát triển mạnh mẽ của điện ảnh Việt Nam trong giai đoạn mới.

Thúc đẩy hợp tác và đầu tư điện ảnh Việt Nam-Pháp

Tại tọa đàm “Điện ảnh Việt Nam và Pháp: Tiềm năng và cơ hội hợp tác” ở Paris ngày 4/12, các nhà quản lý điện ảnh cũng như nhà sản xuất và nghệ sĩ hai nước đã trao đổi về chiến lược phát triển và hội nhập quốc tế của điện ảnh Việt Nam trong bối cảnh mới và triển vọng hợp tác để phục vụ công chúng, đi tranh giải quốc tế.

Các đại biểu tham quan triển lãm.

Kỷ niệm 65 năm ngoại giao Việt Nam-Cuba: Khai mạc triển lãm “Nghĩa tình thủy chung”

Triển lãm “Nghĩa tình thủy chung” kỷ niệm 65 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Cuba là sự kiện ý nghĩa, là lời tri ân sâu sắc dành cho mối quan hệ lịch sử giữa hai dân tộc, mối quan hệ đã được hun đúc qua nhiều thế hệ và luôn được gìn giữ như một báu vật vô giá, trở thành tấm gương sáng cho tình đoàn kết quốc tế.

Cảnh trong phim "Nhà hai chủ". (Ảnh: Galaxy Studio)

Phim “Nhà hai chủ” dự kiến ra rạp ngày 26/12

“Nhà hai chủ” là bộ phim do bộ đôi đạo diễn Trần Duy Linh và Phạm Trung Hiếu thực hiện, dựa trên quan niệm dân gian về xây nhà, đã chính thức ra mắt trailer và dự kiến ra rạp vào ngày 26/12 tới.

Tượng voi đá được phụng thờ trong Đền A Sào.

Theo dấu voi chiến về “Đệ nhị sinh từ A Sào”

Lưu giữ dấu tích về thân thế và sự nghiệp của anh hùng dân tộc Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn, khu di tích lịch sử-văn hóa quốc gia Đình, Đền, Bến Tượng A Sào còn gắn với câu chuyện cảm động về chú voi chiến trung nghĩa và câu ca truyền tụng “Đệ nhất sinh từ Kiếp Bạc-Đệ nhị sinh từ A Sào”.

Rie Qudan ký tặng sách cho độc giả Hà Nội.

Tác giả Nhật Bản Rie Qudan: AI và hành trình sáng tác văn học

Rie Qudan là một trong những tác giả trẻ của Nhật Bản sử dụng AI trong công việc sáng tác của mình. Với cô, AI có nhiều tác dụng hữu ích trong nhiều công đoạn của người viết văn, nhưng không thể nào thay thế được khát vọng viết, cảm xúc và những rung động từ trái tim con người.

Hà Trịnh tổ chức liveshow cá nhân vào ngày 15/12.

Hà Trịnh và liveshow đầu tiên trong sự nghiệp

Hà Trịnh từng gây ấn tượng với MV "Tình ca" và album "Nghìn trùng xa cách" gồm 9 sáng tác của Phạm Duy với phần phối của Nguyễn Hữu Vượng. Tuy nhiên phải đến thời điểm này cô mới có điều kiện tổ chức đêm nhạc riêng cùng ban nhạc Màu Nước.

Quang cảnh hội thảo. (Ảnh:LINH BẢO).

Tiếp tục phát huy tính sáng tạo của đội ngũ văn nghệ sĩ

Văn học-nghệ thuật có vai trò quan trọng trong công tác tư tưởng, nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa, công nghệ số phát triển nhanh như hiện nay. Trước tình hình đó, các hội văn học, nghệ thuật Thành phố Hồ Chí Minh cần nhận thức rõ vai trò, trách nhiệm của mình để tổ chức hoạt động đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong thời kỳ mới.