Sức sống mới cho phong trào thanh niên

Phát triển đảng viên trẻ có ý nghĩa quan trọng trong công tác xây dựng Đảng. Hiện nay, nhiều địa phương, nhất là ở khu vực nông thôn, miền núi, nguồn quần chúng ưu tú để giới thiệu bồi dưỡng, kết nạp Đảng đang "cạn" dần, đòi hỏi những giải pháp hữu hiệu.
Vợ chồng đảng viên trẻ Phạm Xuân Hậu và Phạm Thị Sung (xã Ba Thành, huyện Ba Tơ) hỗ trợ, kết nối bà con phát triển sản phẩm thổ cẩm Làng Teng.
Vợ chồng đảng viên trẻ Phạm Xuân Hậu và Phạm Thị Sung (xã Ba Thành, huyện Ba Tơ) hỗ trợ, kết nối bà con phát triển sản phẩm thổ cẩm Làng Teng.

Hiếm nguồn để bồi dưỡng

Ba Vinh là xã vùng cao huyện miền núi Ba Tơ (Quảng Ngãi), với hơn 1.300 hộ; trong đó dân tộc Hrê chiếm 97%, tỷ lệ hộ nghèo 30%. Để đưa xã vùng cao này phát triển kinh tế-xã hội, tổ chức cơ sở đảng, đảng viên phải là nòng cốt, tiên phong và đi đầu xu hướng làm kinh tế mới, phong trào làng, bản mới trên nhiều lĩnh vực. Xã hiện có 320 đảng viên, với 13 chi bộ trực thuộc (tỷ lệ đảng viên trẻ chiếm số lượng hơn 50%). Để tạo nguồn cũng như phát triển đội ngũ đảng viên trẻ, các chi bộ xã Ba Vinh theo dõi, bồi dưỡng học sinh, thanh niên uy tín, tiên phong ở làng, bản. Năm 2021, xã Ba Vinh được giao chỉ tiêu phát triển 10 đảng viên trẻ. Tuy nhiên, xã chỉ kết nạp được bảy người.

Khắc phục khó khăn, năm 2022, Đảng bộ xã phấn đấu kết nạp 13 đảng viên trẻ, vượt chỉ tiêu đề ra. Ông Phạm Văn Nước, Bí thư Đảng ủy xã Ba Vinh cho biết: Địa bàn xã rộng, dân số đông nên nguồn để phát triển đảng viên không thiếu. Tuy nhiên, xã vùng cao có những khó khăn đặc thù đòi hỏi các chi bộ phải duy trì nỗ lực nhiều hơn. "Khó khăn nhất là quần chúng đã đi học bồi dưỡng nhưng do quá trình thẩm tra để hoàn thiện hồ sơ kết nạp cần thời gian nên nhiều trường hợp không tâm huyết, không theo đến cùng. Hoặc có người học bồi dưỡng xong lại lo đi làm ăn xa" - ông Nước nhấn mạnh.

Xã Ba Thành, huyện Ba Tơ có tám chi bộ trực thuộc với 139 đảng viên. Năm 2022, các chi bộ kết nạp tám đảng viên trẻ phát triển từ Đoàn thanh niên. Ngoài khó khăn do thanh niên đi làm ăn xa, còn có tình trạng tảo hôn làm ảnh hưởng đến công tác tạo nguồn, bồi dưỡng người trẻ. Bí thư Đảng ủy xã Ba Thành Phạm Quang Đức, chia sẻ: "Có những trường hợp chi bộ giới thiệu ba, bốn quần chúng ưu tú, đi đầu trong làm ăn kinh tế, giúp đỡ bà con cộng đồng, có chí hướng tốt nhưng do trước đó, họ vướng việc tảo hôn nên không được kết nạp Đảng". Đảng viên trẻ Phạm Xuân Hậu tâm sự: "Ngoài được các anh chị giúp đỡ, bản thân mỗi đoàn viên, thanh niên cũng phải khát khao vào Đảng. Từ khát khao sẽ có hành động cụ thể để phấn đấu, rèn luyện". Vợ của anh Hậu cũng vừa được kết nạp Đảng.

Toàn huyện Ba Tơ hiện có hơn 4.000 đảng viên. Ban Thường vụ Huyện ủy Ba Tơ thường xuyên chỉ đạo các tổ chức cơ sở đảng quan tâm tạo nguồn, phát triển đảng viên cả về số lượng và chất lượng. Hằng năm, Huyện ủy Ba Tơ giao chỉ tiêu phát triển đảng viên từ các tổ chức cơ sở Đảng, xây dựng kế hoạch chặt chẽ. Từ năm 2020 đến nay, Đảng bộ huyện Ba Tơ đã kết nạp 354 đảng viên, trong đó số lượng đảng viên trẻ đạt 52,82%. Nhìn rộng ra tại tỉnh Quảng Ngãi, ở nhiều huyện khác như Trà Bồng, Sơn Hà, việc phát triển đảng viên trẻ còn khó khăn hơn nhiều, với cả nguyên nhân chủ quan và khách quan.

Tương tự, ở các tỉnh miền núi phía bắc, như Tuyên Quang, việc đào tạo, bồi dưỡng quần chúng ưu tú trẻ để kết nạp Đảng cũng gặp không ít khó khăn. Hằng năm, Ban Thường vụ Tỉnh Đoàn Tuyên Quang đã quán triệt, chỉ đạo các cấp Đoàn tổ chức học tập, triển khai các văn bản về công tác phát triển đảng viên trong đoàn viên, thanh niên. Từ năm 2010 đến nay, toàn tỉnh có 36.309 đoàn viên ưu tú được giới thiệu để các cơ sở Đảng xem xét, kết nạp, trong đó, số lượng đoàn viên nữ chiếm 42,3%. Tuy nhiên, từ năm 2018 trở lại đây, số lượng đoàn viên, thanh niên được kết nạp Đảng thấp hơn các năm trước.

Chị Dương Minh Nguyệt, Bí thư Tỉnh Đoàn Tuyên Quang, cho biết: Nguyên nhân của vấn đề này là nhận thức của một số cán bộ Đoàn, đoàn viên thanh niên còn hạn chế; năng lực tổ chức thực hiện một số nhiệm vụ còn yếu, chưa sát với tình hình thực tế ở cơ sở. Một bộ phận thanh niên thường xuyên đi làm ăn xa, ít tham gia hoạt động đoàn ở địa phương; một số thờ ơ với các hoạt động chính trị-xã hội, thiếu lý tưởng, không có chí tiến thủ, rèn luyện, không có nguyện vọng phấn đấu vào Đảng. Trong quá trình rèn luyện, phấn đấu chuyển Đảng chính thức, một số đảng viên dự bị còn vi phạm kỷ luật, vi phạm điều lệ.

Cần nhiều giải pháp hữu hiệu

Để việc phát triển đảng viên trẻ đạt hiệu quả, lãnh đạo cấp xã ở vùng nông thôn phải đặc biệt quan tâm, bồi dưỡng và nêu gương cho các bạn trẻ. Đoàn thanh niên các cấp cần xây dựng chương trình, kế hoạch, giao chỉ tiêu cụ thể sát với tình hình của từng địa phương. Ngoài ra, phải luôn tự đổi mới nội dung, phương thức của hoạt động Đoàn; tổ chức triển khai có hiệu quả các phong trào hành động để đoàn viên rèn luyện, phấn đấu.

Một cách làm hay tại huyện Chiêm Hóa (tỉnh Tuyên Quang) mà nhiều địa phương khác có thể áp dụng là: Huyện Đoàn Chiêm Hóa có sáng kiến thành lập các tổ tu dưỡng, rèn luyện đảng viên trong thanh niên tại các cơ sở Đoàn trong toàn huyện. Huyện Đoàn đã chỉ đạo thành lập 30 tổ tu dưỡng, rèn luyện đảng viên. Các đảng viên sẽ là những người hướng dẫn, bồi dưỡng tạo môi trường rèn luyện, sinh hoạt, nâng cao bản lĩnh chính trị cho các đối tượng cảm tình Đảng.

Trở lại huyện miền núi Ba Tơ với những khó khăn mà rất nhiều huyện miền núi trên cả nước cũng gặp phải, Bí thư Huyện ủy Ba Tơ Đinh Ngọc Vỹ kiến nghị: "Cấp trên cần có quy định tháo gỡ, như những trường hợp tảo hôn song là nhân tố tích cực, uy tín trong cộng đồng thì cần được xem xét lại".

Nhiều địa phương có chung kiến nghị, cần tạo nguồn từ lực lượng dân quân tự vệ, công nhân... Ngoài ra, cần có các biện pháp phát triển kinh tế, tạo sinh kế cho bà con vùng cao, thu hút thanh niên gắn bó địa phương, từ đó bồi dưỡng, hình thành lớp đảng viên mới.

Có thể bạn quan tâm

Để tạo nên đội ngũ lao động chất lượng cao, cần đổi mới căn bản công tác đào tạo nghề. (Trong ảnh: Lớp học nghề Kỹ thuật máy lạnh và điều hòa của Trường cao đẳng nghề Bắc khoa Hà Nội). Ảnh: Thành Đạt

Bước chuyển đổi về chất

Lời tòa soạn: Sau hơn 40 năm, hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài đã đạt được nhiều kết quả. Trong bối cảnh cạnh tranh ngày một gay gắt, Việt Nam có những chuyển dịch từ trong chính sách cũng như sự chủ động của doanh nghiệp vì mục tiêu hướng đến sự chuyển đổi về chất trong xuất khẩu lao động.

Hàn điện là một trong những ngành "khát" lao động tại nhiều quốc gia.

Lành mạnh và minh bạch hơn

Tình trạng doanh nghiệp không có giấy phép vẫn đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, cộng với nạn lừa đảo đã làm ảnh hưởng lớn đến người lao động. Làm lành mạnh, minh bạch hóa thị trường lao động xuất khẩu trở thành đòi hỏi ngày càng cấp thiết.

Người lao động Việt Nam vốn chăm chỉ, song cần nâng cao chất lượng tay nghề để có thể vươn đến phân khúc thu nhập cao.

Đổi mới căn bản từ đào tạo

Xu hướng chuyển đổi xanh của các nền kinh tế thế giới đòi hỏi Việt Nam phải sớm có chiến lược đào tạo bài bản nhằm chuẩn bị nguồn nhân lực chất lượng cao, có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

Một lớp học tiếng Hàn dành cho học viên chuẩn bị xuất khẩu lao động. Ảnh Văn Học

Xây dựng hệ sinh thái xuất khẩu lao động toàn diện

Thị trường lao động đang ngày càng đòi hỏi người lao động có trình độ tay nghề, kỹ năng cao. Vì thế, công tác đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài cần một sự thay đổi về chất. Đó là chuyển từ "xuất khẩu sức lao động" sang "xuất khẩu nhân lực chất lượng".

Cơ quan chức năng Việt Nam họp với đối tác Hàn Quốc nhằm thúc đẩy hợp tác song phương trong lĩnh vực lao động, việc làm.

Đồng bộ giải pháp mở rộng thị trường thu nhập cao

Ông Đặng Đức Thuận, Phó Cục trưởng Quản lý lao động ngoài nước, Bộ Nội vụ, chia sẻ với Nhân Dân cuối tuần, về những giải pháp trong quản lý nhà nước để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực xuất khẩu lao động. Đi đôi với đó là giảm khâu trung gian, chống lừa đảo, bảo vệ người lao động.

Tại Techno Park, các doanh nghiệp FDI tham gia ngay từ khâu đặt hàng và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao tại chính các nhà máy đạt tiêu chuẩn quốc tế. (Ảnh Vân Nguyễn)

Xu thế mới từ mô hình xuất khẩu tại chỗ

Thay vì phải trả những khoản chi phí không nhỏ cho môi giới xuất khẩu lao động, phải xa gia đình đi làm ăn ở nơi xứ người với rất nhiều khác biệt về văn hóa, khí hậu, thói quen sinh hoạt… nhiều người lao động Việt Nam đang lựa chọn việc làm theo một xu hướng mới.

Anh Lê Lương Nguyên (ngoài cùng bên phải) trao đổi với lao động trong xưởng.

Cú "quay xe" ngoạn mục

Nghệ An là một trong những địa phương có nhiều lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Sau nhiều năm bôn ba xứ người, không ít cá nhân quyết định về nước lập nghiệp, trở thành những tấm gương làm kinh tế giỏi.

Các hình thái thời tiết ngày càng cực đoan buộc các đô thị phải sớm thay đổi cách ứng phó, tăng khả năng chống chịu. (Ảnh THÀNH ĐẠT)

Quy hoạch đô thị và sức đề kháng với thiên tai

Liên tiếp những đợt thiên tai bất thường xảy ra trong hai tháng qua đã khiến nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước gánh chịu những hậu quả khôn lường, và làm bộc lộ nhiều bất cập, đặc biệt là hiện tượng ngập lụt tại các đô thị lớn.

Ứng phó ngập lụt đô thị không chỉ là nhiệm vụ kỹ thuật, mà còn là thước đo năng lực quản trị và tầm nhìn phát triển quốc gia. (Ảnh: Xuân Ngọc)

Chuyển đổi tư duy để chủ động thích ứng

Ngập lụt đô thị đã và đang trở thành vấn đề nổi cộm, kéo dài và khó giải quyết ở hầu hết các thành phố lớn của Việt Nam. Thời gian qua, dù hàng loạt dự án chống ngập được triển khai với vốn đầu tư lớn, nhưng tình trạng nước dâng ngập đường, nhà cửa, khiến giao thông tê liệt và đời sống người dân bị đảo lộn... vẫn tiếp diễn.

Ao Hoàng Giáp trong ngõ 99 Định Công Hạ (phường Định Công, Hà Nội) bị lấn chiếm, dựng nhà tạm và tập kết vật liệu xây dựng. (Ảnh VĂN HỌC)

Khi mặt nước vẫn đang bị thu hẹp

Tình trạng lấn chiếm, lấp ao, hồ, sông, kênh dẫn nước trái phép, không chỉ gây thất thoát tài sản công, mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng thoát nước, thấm nước của Thủ đô Hà Nội.

Công viên trữ nước Chulalongkorn Centenary ở trung tâm thủ đô Bangkok (Thái Lan) có khả năng lưu trữ hơn 1 triệu lít nước nhờ hệ thống hồ chứa liên hoàn. (Nguồn QUYHOACHDOTHI.VN)

Gợi mở từ thế giới

Trải qua hàng thập kỷ gồng mình chống chịu các hiện tượng thời tiết cực đoan, nhiều mô hình đô thị tích hợp khả năng chống chịu biến đổi khi hậu được triển khai ở các quốc gia như: Hà Lan, Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc hay Đức là minh chứng tiêu biểu cho tư duy "sống chung với nước" bằng khoa học, quy hoạch và quản trị hiện đại.

Trao quà cứu trợ đến với người dân vùng lũ tỉnh Đắk Lắk. (Ảnh TTXVN)

Cần chính sách đặc biệt

Hơn một tuần qua, sau đợt mưa lũ lịch sử, các tỉnh Lâm Đồng, Khánh Hòa, Đắk Lắk, Gia Lai vẫn oằn mình nỗ lực vượt qua những tổn thất nặng nề do thiên tai.

Công nhân EVNHANOI sử dụng máy đo nhiệt kiểm tra tình trạng thiết bị điện tại trạm biến áp vận hành không người trực. Ảnh: Thành Đạt

Từ ứng dụng tới làm chủ công nghệ chiến lược

Xuất phát từ chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, và trên tinh thần cụ thể hóa Nghị quyết số 57-NQ/TW; Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, Việt Nam xác định tập trung nguồn lực phát triển các công nghệ chiến lược.

Quang cảnh Hội nghị Cấp cao ASEAN+3 lần thứ 28. (Ảnh VGP/Nhật Bắc)

Cải thiện môi trường kinh doanh nhờ hiện đại hóa quản lý

Một số ngành nghề như kinh doanh "tạm nhập, tái xuất" thực phẩm đông lạnh, xuất khẩu gạo hay dịch vụ kế toán… vốn được xác định là ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Doanh nghiệp hoạt động trong các ngành nghề này thường khá chật vật, chạy đôn chạy đáo để lo hoàn thiện hồ sơ xin giấy phép kinh doanh.

Phó Tổng Giám đốc Qualcomm Gerardo Giaretta nhận định, kỹ sư Việt Nam có trình độ đẳng cấp thế giới.

Cú huých đủ mạnh

Một doanh nghiệp Việt Nam lọt vào báo cáo của Gartner, hệ quy chiếu khắt khe bậc nhất thế giới, có thể chỉ là một lát cắt nhỏ của ngành công nghệ. Nhưng đằng sau đó là tương lai đầy hứa hẹn: Người Việt đủ khả năng bước vào sân chơi công nghệ lõi, song cần có một cú huých đủ mạnh.

Công nhân EVNHANOI kiểm tra vận hành Hệ thống thiết bị đóng cắt hợp bộ. Ảnh: Thành Đạt

Hợp tác ba bên trong phát huy giá trị cốt lõi

Từ một hệ thống chủ yếu vận hành bằng thiết bị nhập khẩu, ngành điện Việt Nam đang bước vào giai đoạn vươn mình, nỗ lực làm chủ các công nghệ lõi, để không bị tụt lại trong xu thế chuyển dịch năng lượng toàn cầu.

Kiểm tra thông số thiết bị điện tại trạm biến áp. (Ảnh Thành Đạt)

Nền tảng quản lý, vận hành tối ưu lưới điện

Với yêu cầu ngày càng cao về chất lượng và độ tin cậy cung cấp điện, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) không ngừng cải thiện nền tảng hạ tầng, ứng dụng các giải pháp công nghệ hiện đại. Trong đó, việc làm chủ nhiều bộ khung công nghệ cốt lõi giúp quá trình quản lý và vận hành lưới điện ngày càng hiệu quả.

Tòa nhà PECC2 Innovation Hub tại Thành phố Hồ Chí Minh đã vận hành BESS công suất 750 kW.

BESS - Gỡ nút thắt cho năng lượng tái tạo

Những năm gần đây, Việt Nam đã vươn lên nhóm quốc gia tăng trưởng năng lượng tái tạo nhanh nhất khu vực. Tuy nhiên, tình trạng nguồn điện sạch vẫn bị bỏ phí cần được ngành điện nhận diện và tìm lời giải.

Trung tâm Điều khiển số tại Trung tâm Điều độ Hệ thống điện Thành phố Hà Nội được xây dựng trên nền tảng hệ thống SCADA. (Ảnh Thành Đạt)

Đo độ phát triển công nghệ, đếm lợi thế cạnh tranh

Công nghệ lõi là những công nghệ nền tảng, có khả năng chi phối chuỗi sản xuất công nghiệp, tạo ra hệ sinh thái sản phẩm, dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Làm chủ công nghệ lõi đồng nghĩa với việc nắm quyền thiết kế, tích hợp và sản xuất hệ thống, từ đó giảm phụ thuộc bên ngoài và nâng cao năng lực tự chủ công nghệ.

Đoàn đánh giá ngoài thuộc Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long tiến hành kiểm định chất lượng một số chương trình đào tạo của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội).

Triết lý giáo dục trong thời đại thời AI

Triết lý giáo dục là nền tảng định hướng cho bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục. Nó không chỉ là khẩu hiệu hay niềm tin chung, mà là hệ quy chiếu giá trị chi phối mọi hoạt động quản lý, giảng dạy và học tập.

Đoàn chuyên gia của Hiệp hội Kiểm định các Trường đại học Nhật Bản kiểm định chất lượng tại Trường đại học Việt Nhật. (Ảnh VJU)

Phép thử với năng lực tự đổi mới

Nếu như kiểm định chất lượng bên ngoài là "tấm gương phản chiếu" khách quan, thì bảo đảm chất lượng bên trong chính là "nội lực" duy trì và phát triển bền vững của chính mỗi trường đại học.

GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Chuyển hóa từ công cụ thành động lực

Đánh giá hiện trạng công tác bảo đảm chất lượng giáo dục đại học và nêu định hướng một số giải pháp là nội dung cuộc phỏng vấn của phóng viên Nhân Dân cuối tuần với GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

PGS, TS Lê Văn Hảo.

Lan tỏa văn hóa chất lượng

Theo PGS, TS Lê Văn Hảo, Ủy viên Hội đồng Kiểm định chất lượng giáo dục của Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long và Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Sài Gòn, các cơ sở giáo dục đại học cần có chiến lược và giải pháp cụ thể để hình thành và phát triển bền vững văn hóa chất lượng của nhà trường.

Sinh viên học tập tại Thư viện Trường đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh. (Nguồn: Website nhà trường)

Tâm tư "người trong cuộc"

Những năm qua, công tác kiểm định chất lượng giáo dục đại học đã được triển khai đồng bộ, có chiều sâu và đạt kết quả tích cực. Tuy nhiên, công tác tự đánh giá và bảo đảm chất lượng giáo dục đại học vẫn còn nhiều khó khăn.

Thiết kế: Khiếu Minh; ảnh: Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam và Thành Đạt

Tinh thần khai phóng và khát vọng sáng tạo

Tháng 11/1925, khóa khai giảng đầu tiên của ngôi trường Mỹ thuật Đông Dương, tiền thân của Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, đã đặt dấu mốc đặc biệt mang tính bước ngoặt cho một cuộc cách mạng thẩm mỹ lớn trong xã hội Việt Nam đương thời.