Gieo hồn chèo trên miền đất gió

Than Uyên (Lai Châu) “hãnh diện” có cánh đồng Mường Than trù phú, được người Thái xếp hạng “Nhất Thanh, nhì Lò, tam Than, tứ Tấc”, đứng thứ ba trong tứ đại cảnh đẹp của Tây Bắc. Nếu như nói đến dân ca, dân vũ ở vùng đất được ví như cái nôi của gió, người ta sẽ nghĩ ngay đến hát Then - Tính tẩu, múa xòe của người Thái. Nhưng nếu ai đã một lần ghé thăm làng văn hóa khu 8 thị trấn huyện Than Uyên, thì đều có một cảm nhận như đang bước vào một làng quê… đồng bằng Bắc Bộ.

Một tiết mục hát chèo của bà con khu 8 - Than Uyên trong ngày hội truyền thống của làng.
Một tiết mục hát chèo của bà con khu 8 - Than Uyên trong ngày hội truyền thống của làng.

Xuân Hồng - Duyên lành đồng bằng - núi cao

Đi từ hướng thành phố Lai Châu về cửa ngõ thị trấn, sát quốc lộ 32C có một cổng làng thật lạ, riêng có ở vùng đất Lai Châu, mô phỏng theo dáng cổng làng xưa: “Thượng thu, hạ thách”. Mái cổng lợp bằng ngói đất nung kiểu mũi hài, ở giữa là cửa chính rộng; hai bên gồm bốn cột trụ, liền sát bên ngoài là hai cửa phụ được trang trí mang tính tượng trưng. Trong làng tuy không có mái đình, cây đa. Nhưng không gian, cảnh trí làm cho người ta liên tưởng đến vẻ yên bình của một làng quê Việt.

Trẻ con nơi đây vẫn hát những câu ca: “Hỡi cô thắt dải lưng xanh/ Có về Nam Định với anh thì về/ Nam Định có bến Đò Chè/ Có sông tắm mát có nghề cửi canh…”. Những câu hát ấy thường được mở màn cho một chương trình văn nghệ của bà con nơi đây. Thực tế đó những câu ca dao trong kho tàng văn hóa dân gian. Nhưng được các “nghệ sĩ” làng Xuân Khiêng đặt lời cho thỏa nỗi nhớ quê.

Những năm 60 của thế kỷ trước, hưởng ứng phong trào “Khai hoang xây dựng vùng kinh tế mới”, 30 hộ gia đình, 162 nhân khẩu của làng Hành Thiện (xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường, Nam Định), đã tình nguyện viết đơn lên miền núi cùng với các đồng bào dân tộc Tây Bắc. Hôm nay, mỗi khi nhắc đến ngày chia tay quê hương đi xây dựng vùng kinh tế mới, thì những hình ảnh của 50 năm về trước với ông Đặng Hùng Giao (82 tuổi), nguyên Chủ nhiệm Hợp tác xã (HTX) Xuân Khiêng đầu tiên lại như mới ngày hôm qua. Ông kể: “Ngày 1-4-1965, bà con nhân dân xã Xuân Hồng tập trung kín sân kho HTX. Những cái bắt tay, những cái ôm đến nghẹt thở như không muốn rời. Cảnh chia tay bịn rịn nhiều người không cầm được nước mắt…”.

Sau tám ngày ròng rã, người vai gánh, đầu đội, tay xách, nách đeo, ngày đi, đêm nghỉ, lội suối trèo đèo. Sau những đận thót tim vượt 17 cổ gà lên đỉnh Khau Co, xuống gần hai chục khúc cua đèo Khau Phạ (Yên Bái). Cuối cùng đoàn đã đặt chân tới bản Khiêng vào ngày 8-4-1965 (tức ngày 7-3 năm Ất Tỵ), và ngày 7-3 âm lịch hằng năm được chọn là ngày hội truyền thống của làng. Đến nơi ai cũng mệt mỏi rã rời. Nhưng trước cảnh bà con bản Khiêng đón tiếp nồng nhiệt, tận tình, trông ai cũng rạng rỡ. Rồi cờ, băng-rôn, biểu ngữ giăng đỏ đường chào đón đoàn. Bỗng dưng cái lạ lẫm, đói, mệt, trong mỗi người như tan biến. Sau những cái bắt tay thân mật, là những cử chỉ thân tình: người xách đồ, rót nước, lấy khăn rửa mặt… tất cả cứ ùa đến cảm giác như người thân đi xa trở về. Ban đầu chưa có nhà ở, nên mỗi hộ sẽ ở chung với một gia đình bà con bản Khiêng. Phải sau một tháng thì đoàn nhận mặt bằng định cư và ổn định sản xuất. Để nhớ cái ơn đùm bọc của bà con bản Khiêng, sau khi ổn định trên vùng đất mới. Bà con quyết định đặt tên làng là Xuân Khiêng (lấy tên đầu của xã Xuân Hồng ghép với tên bản Khiêng), sau này HTX Xuân Khiêng từ đó mà thành lập.

Hát chèo để yêu quê mới

Muốn biết về gánh hát Xuân Khiêng hãy tìm đến ông, muốn biết tiếng chèo Xuân Khiêng có từ khi nào trên miền “đất gió” thì đến gặp ông. Bà con nơi đây gọi ông với cái tên như biểu hiện một sự kính trọng và biết ơn: “Người lưu giữ các làn điệu chèo cổ”, ông là Đặng Nguyên Thử, nguyên Đội trưởng đội văn nghệ, thầy giáo vỡ lòng đầu tiên của làng Xuân Khiêng.

Căn nhà làm theo lối kiến trúc vùng nông thôn Bắc Bộ, khung nhà làm bằng cột gỗ, mái ngói, tường trát vách xi khá đơn sơ, nhưng thật lịch thiệp và trân trọng. Trên các bức tường của căn nhà, hàng chục tấm bằng khen, giấy khen, giấy chứng nhận… là thành tích của các thành viên trong gia đình ông. Các nhạc cụ nghệ thuật chèo được lưu giữ trang trọng, được ông giới thiệu như những “người bạn” cùng ông như hình với bóng. Đây là cây đàn tam đã nhẵn thín, mòn vẹt chỗ tay nắm, kia cây sáo trúc sẫm như mầu bồ hóng, thanh la đã lõm vết chạm…

Ở cái tuổi “xưa nay hiếm”, ông vẫn có thể nhớ và hát được hơn 30 làn điệu chèo cổ. “Vốn liếng” của ông đến nay là hơn 20 tiểu phẩm, hoạt cảnh chèo do chính ông biên soạn. Trong những thập niên 60, 70 và 80 của thế kỷ trước, cái tên chiếu chèo Xuân Khiêng như một làn gió mới trong sự đợi chờ của bà con vào các buổi tối. Lúc khỏe, ông Thử lại truyền dạy cho con cháu những làn điệu chèo cổ của quê hương.

Ông trầm ngâm nhớ thời còn nhỏ: Cậu bé Thử say chèo lắm, hễ cứ nghe trống chèo thi nhịp ở đâu, ông và lũ bạn lại chuẩn bị đóm, đuốc để tối đi xem. Có hôm bỏ cả cơm tối đến thật sớm vì sợ không có chỗ. Lớn lên vì quá yêu môn nghệ thuật truyền thống này, ông xin vào gánh hát chèo của làng Hành Thiện. Ban đầu chỉ là chân anh gánh hòm đồ, trải chiếu sân đình phục vụ gánh hát. Sau ông được các nghệ nhân truyền dạy, với niềm say mê, yêu chèo và năng khiếu bẩm sinh, dần dần ông trở thành kép chính có hạng của phường chèo Xuân Hồng. Trước khi đưa gia đình cùng đoàn lên Tây Bắc xây dựng vùng kinh tế mới, ông còn diễn phục vụ bà con vở chèo cổ “Lưu Bình Dương Lễ”.

Rồi lên vùng đất mới, anh kép Thử chẳng thể nào quên được cảnh hằng đêm giặc Mỹ rải bom ùng oằng trên trời như sấm tháng sáu. Ngày bà con sơ tán vào rừng trú ẩn, đêm đến lại đốt đuốc ra đồng. Lớp học vỡ lòng của thầy Thử được bà con dựng ở ngay bìa rừng, cũng chỉ là tranh tre nứa lá, những cái bàn cũng là những cây rừng ghép lại, lớp học thật đơn sơ. Trong những ngày tối tăm, gian khổ ấy, nơi rừng xanh núi thẳm, tiếng thầy cứ ấm nồng như hơi thở của núi, của rừng. Và ở nơi ấy người ta vẫn thấy lanh lảnh tiếng trẻ đọc bài. Ngày đầu ổn cư, bà con gặp muôn vàn khó khăn, nhưng cái đáng sợ nhất là nỗi buồn, nhớ quê, nhớ gia đình. Nhiều người đã nản chí muốn quay về xuôi…

Nhiều đêm suy nghĩ, anh giáo Thử quyết định phải làm một cái gì đó để lấy lại tinh thần cho bà con có thêm niềm tin vào ngày mai. Sau những buổi lao động sản xuất tập thể, trong giờ giải lao. Bao “vốn liếng” văn nghệ tích cóp được thầy phô diễn. Mượn những nhân vật trong chèo để pha trò, mang đến tiếng cười cho mọi người. Như những thanh củi đang cháy lụi đến mẩu cuối cùng, bỗng gặp gió lại bùng lên, mọi người hòa theo, nhập cuộc bằng những câu chèo và cái buồn tự dưng tan biến. Và đội văn nghệ HTX Xuân Khiêng ra đời trong hoàn cảnh ấy.

Giữ gìn như báu vật

Ngoài những vở chèo cổ, ông Thử biên soạn những tiểu phẩm, hoạt cảnh mới phù hợp hoàn cảnh bà con lúc bấy giờ như vở: “Con lợn sổng chuồng”, “Ông Đưỡng về quê”, “Cánh cửa sổ”… Dựa trên làn điệu chèo truyền thống, ông cải biên theo lối tích xưa, chuyện nay, mang hơi thở và tâm sự cuộc sống của bà con trong những ngày đầu bỡ ngỡ. Đồng thời nói lên tinh thần cách mạng, xây dựng quê hương mới, niềm tin vào Đảng, vào Bác Hồ. Những tác phẩm chèo giữa miền đất gió ấy như một luồng sinh khí mới để mọi người cùng hòa nhịp. Ngày đó, cứ vào tối thứ năm và chủ nhật, chiếu chèo Xuân Khiêng vẫn trải đều đặn phục vụ bà con. Ngày tập, đêm diễn không lúc nào làng Xuân Khiêng ngơi tiếng trống, tiếng phách…, tất cả cứ tưng bừng náo nhiệt. Làng lại vui như mở hội.

Tại nhà văn hóa cơ sở, ông Phạm Trường Sơn, Bí thư Chi bộ khu 8, giới thiệu cho chúng tôi về những hoạt động của khu qua những tấm ảnh đã bạc mầu thời gian. Phía cuối nhà văn hóa là nơi treo, cất giữ những nhạc cụ và trang phục diễn chèo. Ông Sơn chia sẻ: “Hằng năm, các hoạt động văn nghệ của làng do đoàn thanh niên tổ chức. Nhưng những tiết mục chèo của các cụ vẫn thu hút mọi người nhất. Đến nay, lớp diễn viên của đội chèo Xuân Khiêng năm xưa không còn nhiều, nhưng bà con sẽ cố gắng lưu giữ một phần vốn chèo cổ như một niềm tự hào của quê hương Nam Định”.

Suốt 50 năm qua, người còn người mất, nhưng không khi nào điệu chèo vắng bóng trong đời sống sinh hoạt của bà con Xuân Hồng. Họ lưu giữ câu hát, tiếng đàn theo mình như một “báu vật” được chân truyền và tự thấy mình phải có trách nhiệm gìn giữ.

Có thể bạn quan tâm

Nhà văn Nguyễn Nhật Ánh ra sách mới

Nhà văn Nguyễn Nhật Ánh ra sách mới

NXB Trẻ vừa phát hành truyện dài mới nhất của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh mang tên “Cô bé hàng xóm và bốn viên kẹo”. Chọn bối cảnh Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh những năm 1980, truyện kể về dân nhập cư, những người nghèo sống ở đô thị hoa lệ, về tình làng nghĩa xóm và bao điều đẹp đẽ giờ đây chỉ còn trong ký ức.

Không gian trong chiếc xe "Sách trên mây".

"Sách trên mây" - Nung nấu từ vấp ngã

“Người lái xe” như anh chỉ cần làm một sứ mệnh nhỏ là lái xe, đưa những quyển sách đến tay những người cần, gieo một hạt mầm nhỏ và đợi chờ ngày những hạt mầm đó sẽ trở nên xanh hơn...

Nhà thơ Kevin Bowen và nhà thơ Nguyễn Phan Quế Mai trong cuộc ra mắt tập thơ "Khúc hát thành Cổ Loa" của ông tại Việt Nam. Ảnh: QUANG HƯNG

Khôn nguôi những cuộc kiếm tìm

Chiến tranh ngày một lùi xa nhưng dư chấn của mất mát, hy sinh vẫn luôn day dứt, buốt đau trong tâm khảm những người ở lại, những người thuộc thế hệ sau.

Một góc phòng triển lãm.

Bước ngoặt mới của Đặng Tiến

Sau tám năm, họa sĩ Đặng Tiến trở lại với công chúng mỹ thuật bằng triển lãm cá nhân “Ngày tháng này”, đang diễn ra tại Art30 Gallery (30 Quang Trung, Hà Nội).

Một chuyến về nguồn Thanh Hóa của dòng họ Trịnh ở Đa Sỹ (Hà Đông, Hà Nội).

Tôn vinh các danh nhân họ Trịnh

Nhiều đóng góp của họ Trịnh Việt Nam nói chung, các bậc danh nhân, nhân sĩ họ Trịnh nói chung, đối với lịch sử đất nước, đã được điểm nhắc trong hội thảo khoa học “Họ Trịnh trong tiến trình lịch sử Việt Nam”.

KTS Vũ Hiệp cùng các đồng nghiệp trong cuộc ra mắt sách.

Gọi ra sự gần gũi giữa các ngành nghệ thuật

KTS, họa sĩ, tác giả Vũ Hiệp, giảng viên Trường đại học Giao thông vận tải, đã bắt đầu từ bản nhạc “Rhapsody trên chủ đề Paganini” để tìm kiếm mối liên quan giữa các ngành kiến trúc, điêu khắc, hội họa, văn học, âm nhạc, sân khấu, điện ảnh và cho ra mắt cuốn sách “Tiếng dội của hình” (NXB Mỹ thuật).

Một cuốn Lịch có Kỷ lục số trang nhiều nhất (4.019 trang), nặng 8 kg, NXB Tri thức, 2019.

Háo danh, hư danh và đua kỷ lục

Những tưởng thói háo danh méo mó đã được Ngô Tất Tố cay đắng giễu cợt trong “Góc chiếu giữa đình” từ năm 1933 đã lùi xa trong ký ức. Nhưng đến đầu thế kỷ XXI nó lại “tái sinh” dưới các bản dạng mới, tinh vi và hào nhoáng hơn, như việc chạy đua “lập kỷ lục”.

Họa sĩ Bùi Lê Dũng bên tác phẩm của mình.

“Với tôi, Hà Nội là thưa vắng”

Tại Vân Art Gallery, 10-12 Yên Hoa (Hà Nội), bày 35 bức tranh sơn dầu và acrylic về phố Hà Nội và một số phong cảnh trung du, họa sĩ Bùi Lê Dũng đưa người xem về với sự tĩnh lặng để chiêm ngưỡng những khoảnh khắc bừng sáng của khung cảnh, của tâm hồn.

Các em học sinh giao lưu chia sẻ cảm xúc sau khi đọc tác phẩm của nhà văn Đoàn Giỏi.

Kể thêm nét mới về nhà văn “Đất rừng phương Nam”

Hội Nhà văn Việt Nam phối hợp với Hội Nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh vừa kỷ niệm 100 năm Ngày sinh nhà văn Đoàn Giỏi (1925-2025), cùng nhìn lại hành trình sáng tác độc đáo và những đóng góp của ông cho nền văn học Việt Nam hiện đại. Những tác phẩm tiêu biểu của ông được ví như bản đồ di sản, hiện rõ phong vị đất và người Nam Bộ.

Món cá suối được ướp và nướng bằng phương thức truyền thống của người Cơ Ho.

Quà của núi rừng

Mỗi lần được nhận những món quà đơn sơ, dung dị của bạn bè dân tộc thiểu số, lòng tôi lại xúc động khó tả. Quà của bạn là quà của núi, của rừng, bạn chọn từ trên rẫy, dưới suối; những thức quà thấm nắng, ngấm gió của đại ngàn thân thương.

Tôi neo âm nhạc vào niềm tin, không phải vào khổ đau

Tôi neo âm nhạc vào niềm tin, không phải vào khổ đau

Trong hành trình âm nhạc, nhạc sĩ Đỗ Bảo (trong ảnh) không chỉ soi chiếu cảm xúc của mình mà còn mở ra một thế giới thấm đẫm những suy tưởng về hạnh phúc, khổ đau, ánh sáng và bóng tối. Nhạc sĩ chia sẻ với Thời Nay sự tĩnh tại - một vẻ đẹp âm thầm nhưng lay động sâu xa.

Vẽ để níu thanh xuân đang trôi

Vẽ để níu thanh xuân đang trôi

Vẽ bằng ký ức, hoài niệm và cả nỗi sợ thanh xuân dần trôi, họa sĩ Trần Cường (Kuolg Trần, ảnh) sẽ mang đến không gian triển lãm “Bay - Lạc giữa thanh xuân” (diễn ra từ ngày 22 - 30/9 tại Nhà triển lãm 16 Ngô Quyền, Hoàn Kiếm, Hà Nội) một thế giới vừa phảng phất nuối tiếc vừa rực rỡ khát khao.

Thầy Chư tận tình hướng dẫn học viên viết chữ Nôm Dao.

Từ “cấp bản”, cần làm ở cấp tỉnh để giữ chữ Nôm Dao

Tại Bản Cuôn (xã Chợ Đồn, Thái Nguyên), chữ Nôm Dao không chỉ hiện hữu trong những cuốn sách cũ hay các nghi lễ truyền thống, mà đang được truyền dạy lại cho thế hệ trẻ. Cộng đồng người Dao nơi đây coi việc giữ chữ cũng chính là giữ lấy cội nguồn văn hóa của mình.

Bốn nữ nhà văn gặp nhau và chụp ảnh ở Đà Nẵng sau ngày giải phóng miền nam. Hàng trên từ trái qua: Vũ Thị Hồng, Bùi Thị Chiến; hàng dưới từ trái qua: Hà Phương, Trần Thị Thắng. Ảnh tư liệu phục chế mầu

Ngời sáng những dịu dàng qua bom đạn

Tập văn xuôi, thơ “Hoa hồng trong lửa” (NXB Hội nhà văn) của bốn cô gái mới đôi mươi, ngoài đôi mươi năm ấy, sẽ kể những điều có thể coi như đại diện cho thế hệ nữ sinh viên trong số hơn 10 nghìn sinh viên lên đường nhập ngũ từ năm 1970 đến 1972.

“Bản sắc cá nhân chính là nhịp điệu riêng”

“Bản sắc cá nhân chính là nhịp điệu riêng”

Từ những bức tranh phố đậm chất hoài niệm, họa sĩ Phạm Hà Duy Khánh (trong ảnh) trở lại với triển lãm “Lát Phố” (từ ngày 22 đến 31/8 tại Nhà triển lãm 16 Ngô Quyền, Hà Nội) - một cuộc đối thoại nghệ thuật thầm lặng, day dứt.

Trần Nhật Minh (ngoài cùng bên trái) cùng các đồng nghiệp đọc thơ trên Sân thơ Trẻ - Ngày thơ Việt Nam 2019. Ảnh: THÀNH DUY

Cùng ở lại với mùa xuân

Những khúc hát, những cánh đồng, những mùa xuân, buổi mai tinh khôi và cuộc đời lấp lánh… còn ở lại trong tập thơ mới của nhà báo, thi sĩ Khánh Văn Trần Nhật Minh (1981-2024).

Ông Pả La Ham (ngồi giữa) tham gia hoạt động văn hóa ở địa phương.

Dệt âm thanh tình yêu

Ông Pả La Ham (tên khai sinh là Hồ Văn Dương) là người dân tộc Vân Kiều ở thôn R’Lây, xã Đakrông (tỉnh Quảng Trị). Sinh ra và lớn lên ở ngôi làng nhỏ giữa núi rừng Trường Sơn, cả cuộc đời mình, ông để dành thực hiện ước nguyện dệt âm thanh tình yêu.

Đạo diễn Nguyễn Thành Paven trong một lần tác nghiệp.

Hãy chạm tim mình vào “kho báu xanh”

Đạo diễn, nhà làm phim trẻ Nguyễn Thành Paven là một trong ít những nhà làm phim trẻ thế hệ 9X làm việc quên thời gian và có thể vượt núi băng rừng hàng tuần để ghi lại bằng được những khoảnh khắc vàng của “kho báu xanh”.

“Vào chùa”, Acrylic, 120x80cm.

Lời Kinh Bắc của họa sĩ Đỗ Bảng

“Xẩm Chợ” triển lãm tranh lần thứ hai của họa sĩ Đỗ Bảng (Đỗ Hữu Bảng), vừa diễn ra tại triển lãm 16 Ngô Quyền, Hà Nội. 24 tác phẩm tại đây mang dấu ấn sâu sắc trong hành trình sáng tác hơn ba thập kỷ vừa qua, đa sắc màu và lộng lẫy ánh sáng văn hóa vùng Kinh Bắc.

Bia di tích tại Đền thờ Tham tán Lê Đình Dật.

Giữ lấy Căn cứ kháng chiến Đầm Đen

Đáp lại lời hiệu triệu của Vua Hàm Nghi với ngọn cờ Cần Vương, Tham tán Lê Đình Dật đã về quê hương trung du, dấy binh tụ nghĩa, lập căn cứ nơi núi rừng, vượt sông Hồng, sông Lô, tổ chức các cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp.

Tác giả Giai Du nhận giải cao nhất Giải thưởng văn học Kim Đồng lần thứ nhất.

“Thế giới thẩm mỹ trẻ em là vùng đất không dễ chinh phục”

Vượt qua hơn 600 tác phẩm từ khắp các tỉnh, thành phố và nhiều quốc gia, Giai Du - cây bút trẻ 24 tuổi - đã xuất sắc giành Giải nhất tại Giải thưởng Văn học Kim Đồng lần thứ nhất với bản thảo tập truyện dài “Nên làm gì khi trời nổi gió”. Thời Nay đã có cuộc trò chuyện cùng tác giả trẻ về cảm hứng tuổi thơ chưa bao giờ vơi cạn.

Nhà báo Alăng Ngước cùng mẹ.

Khi nhà báo hát tri ân dân tộc mình

Nhà nghèo nhưng nỗ lực vượt khó, không ngừng tự học, nhà báo Alăng Ngước, sinh năm 1990, người con của dân tộc Cơ Tu (Đông Giang, Quảng Nam) đã trở thành cây bút phóng sự giỏi nghề. Gần đây, anh nhận thêm sự trân trọng khi ra mắt MV “Kỷ vật của Ama” để tri ân gia đình và đồng bào.

NSƯT Nguyễn Đức Tú giới thiệu về những chiếc mão do ông tạo tác. Ảnh: DƯƠNG NAM

Lửa hát ca còn sáng trên sắc áo

10 năm đứng trên sân khấu chuyên nghiệp, ông đã giành được nhiều giải thưởng quan trọng và được trao tặng danh hiệu NSƯT. Năm 1991, đoàn giải thể, ông Tú trở về địa phương. Tuy nhiên, ngọn lửa nghề trong ông chưa bao giờ ngừng cháy.

Nhà thơ, nhà báo Thuận Hữu chia sẻ tại lễ ra mắt sách của ông và người bạn - tác giả Phan Đức Nhạn. Ảnh: NXB HỘI NHÀ VĂN

Ẩn trong vỏ đá đầy hoa

Tập thơ “Nhặt dọc đường” (NXB Hội nhà văn) ra mắt gần đây được đánh dấu như cuộc trở lại, trở về cùng thơ ca của nhà báo, nhà thơ Thuận Hữu.
Cần sớm có bộ quy chuẩn về an ninh cho các bảo vật quốc gia.

Báo động đỏ trong bảo vệ bảo vật quốc gia

Bảo vật quốc gia Ngai vua triều Nguyễn bị một đối tượng phá hoại ngay tại Điện Thái Hòa, khu vực trung tâm Đại nội Huế. Dù được ngăn chặn kịp thời, sự cố đã để lại hậu quả nghiêm trọng và dấy lên cảnh báo về lỗ hổng an ninh di sản.
Một số tập thơ viết về Bác Hồ của nhà thơ Nguyễn Hưng Hải, thể hiện lòng kính yêu và cảm hứng thiêng liêng từ Người.

Bác là mạch nguồn khơi sáng cho thơ

Với lòng kính yêu, nhà thơ Nguyễn Hưng Hải (Phú Thọ) đã lựa chọn sáng tác về Chủ tịch Hồ Chí Minh là mạch cảm xúc chủ đạo. Ông không ngừng mài giũa mình và nhủ lòng phải tích cực, viết hay hơn nữa về vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc.