Đơn giản hóa quy trình, thủ tục hành chính

Để hoàn thành mục tiêu cắt giảm thời gian thực hiện, tạo điều kiện thuận lợi và phục vụ tốt nhất cho người dân, doanh nghiệp, theo các chuyên gia: Việt Nam cần kiên quyết cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính nội bộ và chuyển đổi mạnh mẽ sang xử lý hồ sơ công việc trên môi trường điện tử.
Cần phân tích rõ hành vi, đặc điểm của khách hàng để xây dựng và thiết kế những dịch vụ công dễ sử dụng nhất.
Cần phân tích rõ hành vi, đặc điểm của khách hàng để xây dựng và thiết kế những dịch vụ công dễ sử dụng nhất.

Ông Nguyễn Ðình Lợi, Phó Trưởng phòng Kiểm soát thủ tục hành chính khối Kinh tế ngành, Cục Kiểm soát thủ tục hành chính, Văn phòng Chính phủ:

Theo báo cáo mới nhất, 47 trong tổng số 76 thủ tục hành chính thiết yếu đã được cung cấp trên môi trường mạng. Thế nhưng, độ thân thiện của các hệ thống này với người dùng vẫn còn là vấn đề lớn.

Nhiều nỗ lực cải tiến mới chỉ xuất phát từ góc độ của nhà quản lý. Khi nhìn vào giao diện tổng thể, việc đưa nhiều thông tin không cần thiết sẽ gây rối cho người dùng. Chúng ta cần phải tư duy thiết kế các chức năng theo vòng đời của người dân và doanh nghiệp, hoặc theo sự kiện đời sống, mới có thể phục vụ tốt hơn.

Yếu tố khác khiến người dân chưa thể sử dụng dịch vụ công trực tuyến một cách thuận tiện xuất phát từ việc kê khai mẫu biểu rất dài. Chúng ta phải thiết kế lại, để gần như người dân không phải kê khai gì cả.

Ngoài ra, muốn thực hiện mô hình giải quyết thủ tục hành chính công phi địa giới hành chính (như thủ tục đổi giấy phép lái xe), cần phải hình thành cơ sở dữ liệu chuyên ngành, phải liên thông và kết nối dữ liệu, cũng như hoàn thiện giải pháp thanh toán trực tuyến. Toàn bộ tiến trình này cần phải được tái cấu trúc để thân thiện với người dùng.

Cuối cùng, chúng ta vẫn đang ở trong giai đoạn chuyển tiếp. Các hệ thống phân tán vẫn cần thời gian để kết nối dần về Cổng dịch vụ công quốc gia.

Ông Vũ Kiêm Văn, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hội Truyền thông số Việt Nam:

Hiện tại, việc sử dụng dịch vụ công trực tuyến chưa thuận tiện và trải nghiệm của người dùng chưa thật sự tối ưu. Khi triển khai dịch vụ công trực tuyến, phải phân tích rõ hành vi, đặc điểm của khách hàng để xây dựng và thiết kế những dịch vụ công dễ sử dụng nhất. Cần phải dồn tâm huyết vào quá trình hoàn thiện cổng dịch vụ thay vì chạy theo thành tích để rồi bỏ đó.

Bên cạnh đó, do dịch vụ công trực tuyến mới được xây dựng, trong quá trình vận hành và phát triển, sẽ phát sinh những vấn đề phải điều chỉnh, phải sửa lỗi. Vì vậy, cần thường xuyên kiểm tra, rà soát, tiếp nhận ý kiến để điều chỉnh, sửa đổi, nâng cấp nhanh chóng. Chúng ta cũng cần xem xét cơ chế về tài chính để các đơn vị công nghệ có thể thường xuyên hỗ trợ nâng cấp, cập nhật.

Bà Võ Thị Trung Trinh, Giám đốc Trung tâm Chuyển đổi số Thành phố Hồ Chí Minh:

Vấn đề lớn nhất là trước đây, Thành phố Hồ Chí Minh có rất nhiều Cổng dịch vụ công riêng biệt. Hiện tại, chúng tôi tập trung vào việc tích hợp tất cả về hệ thống chung. Song song, chúng tôi cũng nỗ lực đầu tư cải thiện các tính năng, chức năng dành cho người dùng.

Dự kiến, tháng 11, Thành phố Hồ Chí Minh sẽ vận hành ứng dụng Công dân số. Ngoài đối tượng người dân địa phương, ứng dụng này hướng tới đội ngũ người lao động đến sinh sống và làm việc tại đây, giúp họ dễ dàng tiếp cận và được cung cấp thông tin về dịch vụ công thiết yếu (y tế, giáo dục, dịch vụ hành chính...).

Chúng tôi sẽ chuyển thông tin về tình trạng xử lý hồ sơ trực tuyến lên ứng dụng này, để người dân biết hồ sơ đã được tiếp nhận và tiến độ giải quyết. Đây cũng là nơi để người dùng chia sẻ những nội dung đánh giá về sự hài lòng, phản ánh hay đóng góp ý kiến... Người dân có thể sử dụng ứng dụng này để đặt lịch tiếp nhận hồ sơ, hoặc lấy số đăng ký. Tất cả nhằm tăng cường sự minh bạch thông tin và cải thiện trải nghiệm người dùng.

Ông Nguyễn Ðức Mạnh, Phó Giám đốc Trung tâm Phục vụ hành chính công tỉnh Hà Giang:

Để vượt qua khó khăn về công tác tuyên truyền và hỗ trợ người dân, tỉnh Hà Giang đã thành lập các tổ chuyển đổi số cộng đồng, đồng thời tận dụng chính đội ngũ cán bộ một cửa thực hiện dịch vụ công trực tuyến. Địa phương cũng đã lắp đặt các kiosk (điểm, trạm dịch vụ) để người dân có thể tự gửi hồ sơ và nhận hướng dẫn từ cán bộ.

Chúng ta phải thấu hiểu, nỗ lực chuyển đổi tư duy từ quản lý hành chính sang phục vụ người dân. Dịch vụ công liên thông cần phải giải quyết một lần được nhiều nhu cầu.

Song song với đó, cần phải đơn giản hóa giấy tờ bằng cách kết nối chia sẻ cơ sở dữ liệu, để người dân chỉ cần cung cấp thông tin thay vì tải nhiều thành phần hồ sơ, giấy tờ. Hiện nay, nhiều cơ quan, bộ, ngành vẫn yêu cầu hồ sơ giấy, chưa chấp nhận bản điện tử, muốn thay đổi thì thủ tục hành chính cũng cần phải được đơn giản hóa, tối ưu nhất để có thể thực hiện ở mức toàn trình.

Bà Ðỗ Thanh Huyền, Chuyên gia phân tích chính sách công, Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) tại Việt Nam:

Ở Việt Nam, trong việc đổi mới tiến trình cung ứng dịch vụ công, đặc biệt là dịch vụ hành chính công, một trong những bước hết sức quan trọng là đơn giản hóa quy trình. Việc thay đổi giao diện không khó, mà điều phức tạp nhất nằm ở quy trình đằng sau đó. Ngoài việc giúp đỡ người dùng, công chức còn gặp khó khăn do có sự thay đổi thường xuyên về các quy định. Đây cũng là yếu tố bất định hơn so những yêu cầu khác.

Chúng ta đang thiếu đội ngũ công chức có khả năng phân tích, quản lý và sử dụng dữ liệu trong khu vực công. Các trường đào tạo cán bộ, công chức nên quan tâm hơn tới vấn đề này.

Có thể bạn quan tâm

Để tạo nên đội ngũ lao động chất lượng cao, cần đổi mới căn bản công tác đào tạo nghề. (Trong ảnh: Lớp học nghề Kỹ thuật máy lạnh và điều hòa của Trường cao đẳng nghề Bắc khoa Hà Nội). Ảnh: Thành Đạt

Bước chuyển đổi về chất

Lời tòa soạn: Sau hơn 40 năm, hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài đã đạt được nhiều kết quả. Trong bối cảnh cạnh tranh ngày một gay gắt, Việt Nam có những chuyển dịch từ trong chính sách cũng như sự chủ động của doanh nghiệp vì mục tiêu hướng đến sự chuyển đổi về chất trong xuất khẩu lao động.

Hàn điện là một trong những ngành "khát" lao động tại nhiều quốc gia.

Lành mạnh và minh bạch hơn

Tình trạng doanh nghiệp không có giấy phép vẫn đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, cộng với nạn lừa đảo đã làm ảnh hưởng lớn đến người lao động. Làm lành mạnh, minh bạch hóa thị trường lao động xuất khẩu trở thành đòi hỏi ngày càng cấp thiết.

Người lao động Việt Nam vốn chăm chỉ, song cần nâng cao chất lượng tay nghề để có thể vươn đến phân khúc thu nhập cao.

Đổi mới căn bản từ đào tạo

Xu hướng chuyển đổi xanh của các nền kinh tế thế giới đòi hỏi Việt Nam phải sớm có chiến lược đào tạo bài bản nhằm chuẩn bị nguồn nhân lực chất lượng cao, có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

Một lớp học tiếng Hàn dành cho học viên chuẩn bị xuất khẩu lao động. Ảnh Văn Học

Xây dựng hệ sinh thái xuất khẩu lao động toàn diện

Thị trường lao động đang ngày càng đòi hỏi người lao động có trình độ tay nghề, kỹ năng cao. Vì thế, công tác đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài cần một sự thay đổi về chất. Đó là chuyển từ "xuất khẩu sức lao động" sang "xuất khẩu nhân lực chất lượng".

Cơ quan chức năng Việt Nam họp với đối tác Hàn Quốc nhằm thúc đẩy hợp tác song phương trong lĩnh vực lao động, việc làm.

Đồng bộ giải pháp mở rộng thị trường thu nhập cao

Ông Đặng Đức Thuận, Phó Cục trưởng Quản lý lao động ngoài nước, Bộ Nội vụ, chia sẻ với Nhân Dân cuối tuần, về những giải pháp trong quản lý nhà nước để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực xuất khẩu lao động. Đi đôi với đó là giảm khâu trung gian, chống lừa đảo, bảo vệ người lao động.

Tại Techno Park, các doanh nghiệp FDI tham gia ngay từ khâu đặt hàng và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao tại chính các nhà máy đạt tiêu chuẩn quốc tế. (Ảnh Vân Nguyễn)

Xu thế mới từ mô hình xuất khẩu tại chỗ

Thay vì phải trả những khoản chi phí không nhỏ cho môi giới xuất khẩu lao động, phải xa gia đình đi làm ăn ở nơi xứ người với rất nhiều khác biệt về văn hóa, khí hậu, thói quen sinh hoạt… nhiều người lao động Việt Nam đang lựa chọn việc làm theo một xu hướng mới.

Anh Lê Lương Nguyên (ngoài cùng bên phải) trao đổi với lao động trong xưởng.

Cú "quay xe" ngoạn mục

Nghệ An là một trong những địa phương có nhiều lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Sau nhiều năm bôn ba xứ người, không ít cá nhân quyết định về nước lập nghiệp, trở thành những tấm gương làm kinh tế giỏi.

Các hình thái thời tiết ngày càng cực đoan buộc các đô thị phải sớm thay đổi cách ứng phó, tăng khả năng chống chịu. (Ảnh THÀNH ĐẠT)

Quy hoạch đô thị và sức đề kháng với thiên tai

Liên tiếp những đợt thiên tai bất thường xảy ra trong hai tháng qua đã khiến nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước gánh chịu những hậu quả khôn lường, và làm bộc lộ nhiều bất cập, đặc biệt là hiện tượng ngập lụt tại các đô thị lớn.

Ứng phó ngập lụt đô thị không chỉ là nhiệm vụ kỹ thuật, mà còn là thước đo năng lực quản trị và tầm nhìn phát triển quốc gia. (Ảnh: Xuân Ngọc)

Chuyển đổi tư duy để chủ động thích ứng

Ngập lụt đô thị đã và đang trở thành vấn đề nổi cộm, kéo dài và khó giải quyết ở hầu hết các thành phố lớn của Việt Nam. Thời gian qua, dù hàng loạt dự án chống ngập được triển khai với vốn đầu tư lớn, nhưng tình trạng nước dâng ngập đường, nhà cửa, khiến giao thông tê liệt và đời sống người dân bị đảo lộn... vẫn tiếp diễn.

Ao Hoàng Giáp trong ngõ 99 Định Công Hạ (phường Định Công, Hà Nội) bị lấn chiếm, dựng nhà tạm và tập kết vật liệu xây dựng. (Ảnh VĂN HỌC)

Khi mặt nước vẫn đang bị thu hẹp

Tình trạng lấn chiếm, lấp ao, hồ, sông, kênh dẫn nước trái phép, không chỉ gây thất thoát tài sản công, mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng thoát nước, thấm nước của Thủ đô Hà Nội.

Công viên trữ nước Chulalongkorn Centenary ở trung tâm thủ đô Bangkok (Thái Lan) có khả năng lưu trữ hơn 1 triệu lít nước nhờ hệ thống hồ chứa liên hoàn. (Nguồn QUYHOACHDOTHI.VN)

Gợi mở từ thế giới

Trải qua hàng thập kỷ gồng mình chống chịu các hiện tượng thời tiết cực đoan, nhiều mô hình đô thị tích hợp khả năng chống chịu biến đổi khi hậu được triển khai ở các quốc gia như: Hà Lan, Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc hay Đức là minh chứng tiêu biểu cho tư duy "sống chung với nước" bằng khoa học, quy hoạch và quản trị hiện đại.

Trao quà cứu trợ đến với người dân vùng lũ tỉnh Đắk Lắk. (Ảnh TTXVN)

Cần chính sách đặc biệt

Hơn một tuần qua, sau đợt mưa lũ lịch sử, các tỉnh Lâm Đồng, Khánh Hòa, Đắk Lắk, Gia Lai vẫn oằn mình nỗ lực vượt qua những tổn thất nặng nề do thiên tai.

Công nhân EVNHANOI sử dụng máy đo nhiệt kiểm tra tình trạng thiết bị điện tại trạm biến áp vận hành không người trực. Ảnh: Thành Đạt

Từ ứng dụng tới làm chủ công nghệ chiến lược

Xuất phát từ chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, và trên tinh thần cụ thể hóa Nghị quyết số 57-NQ/TW; Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, Việt Nam xác định tập trung nguồn lực phát triển các công nghệ chiến lược.

Quang cảnh Hội nghị Cấp cao ASEAN+3 lần thứ 28. (Ảnh VGP/Nhật Bắc)

Cải thiện môi trường kinh doanh nhờ hiện đại hóa quản lý

Một số ngành nghề như kinh doanh "tạm nhập, tái xuất" thực phẩm đông lạnh, xuất khẩu gạo hay dịch vụ kế toán… vốn được xác định là ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Doanh nghiệp hoạt động trong các ngành nghề này thường khá chật vật, chạy đôn chạy đáo để lo hoàn thiện hồ sơ xin giấy phép kinh doanh.

Phó Tổng Giám đốc Qualcomm Gerardo Giaretta nhận định, kỹ sư Việt Nam có trình độ đẳng cấp thế giới.

Cú huých đủ mạnh

Một doanh nghiệp Việt Nam lọt vào báo cáo của Gartner, hệ quy chiếu khắt khe bậc nhất thế giới, có thể chỉ là một lát cắt nhỏ của ngành công nghệ. Nhưng đằng sau đó là tương lai đầy hứa hẹn: Người Việt đủ khả năng bước vào sân chơi công nghệ lõi, song cần có một cú huých đủ mạnh.

Công nhân EVNHANOI kiểm tra vận hành Hệ thống thiết bị đóng cắt hợp bộ. Ảnh: Thành Đạt

Hợp tác ba bên trong phát huy giá trị cốt lõi

Từ một hệ thống chủ yếu vận hành bằng thiết bị nhập khẩu, ngành điện Việt Nam đang bước vào giai đoạn vươn mình, nỗ lực làm chủ các công nghệ lõi, để không bị tụt lại trong xu thế chuyển dịch năng lượng toàn cầu.

Kiểm tra thông số thiết bị điện tại trạm biến áp. (Ảnh Thành Đạt)

Nền tảng quản lý, vận hành tối ưu lưới điện

Với yêu cầu ngày càng cao về chất lượng và độ tin cậy cung cấp điện, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) không ngừng cải thiện nền tảng hạ tầng, ứng dụng các giải pháp công nghệ hiện đại. Trong đó, việc làm chủ nhiều bộ khung công nghệ cốt lõi giúp quá trình quản lý và vận hành lưới điện ngày càng hiệu quả.

Tòa nhà PECC2 Innovation Hub tại Thành phố Hồ Chí Minh đã vận hành BESS công suất 750 kW.

BESS - Gỡ nút thắt cho năng lượng tái tạo

Những năm gần đây, Việt Nam đã vươn lên nhóm quốc gia tăng trưởng năng lượng tái tạo nhanh nhất khu vực. Tuy nhiên, tình trạng nguồn điện sạch vẫn bị bỏ phí cần được ngành điện nhận diện và tìm lời giải.

Trung tâm Điều khiển số tại Trung tâm Điều độ Hệ thống điện Thành phố Hà Nội được xây dựng trên nền tảng hệ thống SCADA. (Ảnh Thành Đạt)

Đo độ phát triển công nghệ, đếm lợi thế cạnh tranh

Công nghệ lõi là những công nghệ nền tảng, có khả năng chi phối chuỗi sản xuất công nghiệp, tạo ra hệ sinh thái sản phẩm, dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Làm chủ công nghệ lõi đồng nghĩa với việc nắm quyền thiết kế, tích hợp và sản xuất hệ thống, từ đó giảm phụ thuộc bên ngoài và nâng cao năng lực tự chủ công nghệ.

Đoàn đánh giá ngoài thuộc Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long tiến hành kiểm định chất lượng một số chương trình đào tạo của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội).

Triết lý giáo dục trong thời đại thời AI

Triết lý giáo dục là nền tảng định hướng cho bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục. Nó không chỉ là khẩu hiệu hay niềm tin chung, mà là hệ quy chiếu giá trị chi phối mọi hoạt động quản lý, giảng dạy và học tập.

Đoàn chuyên gia của Hiệp hội Kiểm định các Trường đại học Nhật Bản kiểm định chất lượng tại Trường đại học Việt Nhật. (Ảnh VJU)

Phép thử với năng lực tự đổi mới

Nếu như kiểm định chất lượng bên ngoài là "tấm gương phản chiếu" khách quan, thì bảo đảm chất lượng bên trong chính là "nội lực" duy trì và phát triển bền vững của chính mỗi trường đại học.

GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Chuyển hóa từ công cụ thành động lực

Đánh giá hiện trạng công tác bảo đảm chất lượng giáo dục đại học và nêu định hướng một số giải pháp là nội dung cuộc phỏng vấn của phóng viên Nhân Dân cuối tuần với GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

PGS, TS Lê Văn Hảo.

Lan tỏa văn hóa chất lượng

Theo PGS, TS Lê Văn Hảo, Ủy viên Hội đồng Kiểm định chất lượng giáo dục của Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long và Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Sài Gòn, các cơ sở giáo dục đại học cần có chiến lược và giải pháp cụ thể để hình thành và phát triển bền vững văn hóa chất lượng của nhà trường.

Sinh viên học tập tại Thư viện Trường đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh. (Nguồn: Website nhà trường)

Tâm tư "người trong cuộc"

Những năm qua, công tác kiểm định chất lượng giáo dục đại học đã được triển khai đồng bộ, có chiều sâu và đạt kết quả tích cực. Tuy nhiên, công tác tự đánh giá và bảo đảm chất lượng giáo dục đại học vẫn còn nhiều khó khăn.

Thiết kế: Khiếu Minh; ảnh: Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam và Thành Đạt

Tinh thần khai phóng và khát vọng sáng tạo

Tháng 11/1925, khóa khai giảng đầu tiên của ngôi trường Mỹ thuật Đông Dương, tiền thân của Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, đã đặt dấu mốc đặc biệt mang tính bước ngoặt cho một cuộc cách mạng thẩm mỹ lớn trong xã hội Việt Nam đương thời.