Chảy máu chất xám ngành đóng tàu

Đợt bùng phát dịch Covid-19 thứ tư trong năm 2021 tiếp tục bồi thêm một đòn chí mạng, khiến các đơn vị đóng tàu thuộc Tổng Công ty Công nghiệp tàu thủy (SBIC) càng thêm lao đao. Các nhà máy chưa dứt cơn đôn đáo "ăn đong" các hợp đồng nhỏ lẻ, lại thường trực nỗi lo bị "chảy máu" nguồn nhân lực, nhất là thợ bậc cao do thu nhập giảm sút, việc làm bấp bênh.

Doanh nghiệp đóng tàu Việt Nam đứng trước nỗi lo thiếu đội ngũ công nhân, kỹ sư có tay nghề. Ảnh: TTXVN
Doanh nghiệp đóng tàu Việt Nam đứng trước nỗi lo thiếu đội ngũ công nhân, kỹ sư có tay nghề. Ảnh: TTXVN

Chi phí phát sinh tăng vọt

Cuối năm 2021, Công ty Đóng tàu Phà Rừng bàn giao tàu chở hàng rời Trường Nguyên Ocean trọng tải 23.500 tấn cho Công ty Trường Nguyên. Đây là một trong những tàu "khủng" được đóng và hoàn thành ngay giữa "vòng xoáy" của dịch Covid-19. Tổng Giám đốc Công ty Vũ Hữu Chiến cho biết, trong năm qua, do giãn cách xã hội, người lao động ở các vùng lân cận như Hải Dương, Quảng Ninh không đến làm việc được nên công ty bị thiếu hụt lao động. Bên cạnh đó, công ty phải gánh thêm các chi phí phòng, chống dịch cả vật tư và con người, chi phí sinh hoạt của người lao động khi thực hiện phương án sản xuất "ba tại chỗ",… Với nỗ lực thực hiện nhiều giải pháp, năm 2021 sản lượng và doanh thu của công ty vượt khoảng 3-5% so kế hoạch, thu nhập người lao động duy trì ổn định, bình quân khoảng 10-11 triệu đồng/tháng.

Đánh giá lại tình hình sản xuất, kinh doanh năm 2021, ông Cao Thành Đồng, Tổng Giám đốc SBIC cho biết, khi triển khai xây dựng kế hoạch, các đơn vị thành viên của SBIC không thể lường hết được sự khốc liệt của diễn biến dịch Covid-19. Trong bối cảnh bình thường, lao động ngành đóng tàu vốn đã thiếu, cộng thêm bị phong tỏa, lực lượng lao động càng thiếu hụt. Số lượng đơn hàng cũng giảm đi đáng kể, nhiều khách hàng tiềm năng dừng/hoãn dự án đầu tư, kể cả hoạt động sửa chữa tàu.

Một khó khăn lớn khác là nguyên liệu đầu vào phục vụ sản xuất bị gián đoạn, giá vật tư tăng đột biến, nhất là giá thép đóng tàu tăng gần 50%; các chi phí sản xuất khác cũng tăng theo do giá vật liệu tăng, năng suất lao động giảm, thời gian lưu thông hàng hóa và phí vận chuyển tăng cao do phải đáp ứng yêu cầu nghiêm ngặt các biện pháp phòng, chống dịch. Hiện nay, việc tuyển dụng nhân lực tại các đơn vị, đặc biệt là lao động có tay nghề rất khó khăn, dẫn đến tình trạng thiếu trầm trọng nhân lực đóng tàu. Việc sử dụng nhân lực thầu phụ khiến gia tăng nhiều chi phí, làm giảm hiệu quả sản xuất.

Đối mặt các khó khăn, thách thức của thị trường và đặc biệt là ảnh hưởng của dịch Covid-19, nhiều đơn vị đóng tàu đã chủ động tìm hướng đi mới với các dòng sản phẩm phù hợp nhu cầu thị trường, giúp người lao động có việc làm, thu nhập, thực hiện nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh theo kế hoạch đề ra. Sẵn sàng đóng tàu số lượng đơn chiếc đòi hỏi kỹ thuật cao trong mỗi đơn hàng để khẳng định năng lực và thâm nhập trở lại thị trường…

Gian nan giữ chân người lao động

Là thợ hàn bậc cao với thâm niên 18 năm trong nghề, anh Đỗ Xuân Giao, công nhân Công ty Đóng tàu và Công nghiệp hàng hải Sài Gòn (Saigon Shipmarin) từng được cử đi tu nghiệp ở Nhật Bản mấy năm, sau đó về làm việc tại nhà máy. Anh cho biết, thời kỳ khủng hoảng khiến "người khổng lồ" Vinashin sụp đổ hơn 10 năm trước cũng không ghê gớm như "làn sóng" dịch lần thứ tư vừa qua. Đặc thù nghề đóng tàu hết sức vất vả, anh em công nhân phải đứng cheo leo trên giàn cao làm việc, hoặc phải chui trong hầm tàu chật chội để hàn, thừa tiếng ồn, khói bụi và thiếu ánh sáng, khí thở. Ngành đóng tàu đào tạo thợ tay nghề kỹ thuật cao hơn nên rất dễ bị các doanh nghiệp cơ khí khác "hút máu", nguy cơ thợ bỏ việc rất cao nếu chế độ đãi ngộ không tương xứng. Trước đây, có nhiều nơi mời gọi anh về làm việc với thu nhập khá hơn nhưng anh vẫn không nỡ rời xa vì đã gắn bó thời gian dài với nghề, quen môi trường làm việc và được đơn vị tạo điều kiện làm việc.

Chủ tịch Công ty Saigon Shipmarin Đỗ Văn Khoa thổ lộ: Tác động tiêu cực của dịch đối với ngành đóng tàu quá khắc nghiệt, số lượng hợp đồng đóng mới và sửa chữa tàu giảm rất mạnh. Trước đây, công ty có 1.000 công nhân lao động, nếu tính cả quân số thầu phụ lên tới 1.500 người, nhưng hiện nay chỉ duy trì được khoảng 300 người, cả thầu phụ mới đến 500 người.

Tổng Giám đốc Công ty Đóng tàu Nam Triệu Vũ Thanh Tùng cho hay, công tác tuyển dụng lao động trực tiếp sản xuất rất khó khăn do cạnh tranh nhân công gay gắt trên thị trường lao động thành phố Hải Phòng, một số khu công nghiệp lân cận đang phát triển nóng, môi trường làm việc tốt và thu nhập cao hơn hẳn nghề đóng tàu. Có thời điểm, gần 100 công nhân tự chấm dứt hợp đồng lao động. Khi công ty có việc, mời họ về lại cũng không được. Dù hết sức khó khăn, công ty cũng cố không để "lọt lưới" nguồn nhân lực khung gồm khoảng 60 kỹ sư tay nghề cao, để chuẩn bị khôi phục sản xuất cho giai đoạn tiếp theo.

Lo lắng trước thực trạng này, Tổng Giám đốc Công ty Đóng tàu Phà Rừng Vũ Hữu Chiến cũng thổ lộ, Trường đại học Hàng hải mấy năm qua không có kỹ sư đóng tàu do sinh viên không đăng ký đầu vào, đây là tình trạng rất nguy hiểm khiến thiếu hẳn thế hệ kỹ sư đóng tàu kế tiếp. Sau này, khi thị trường vận tải biển hồi phục, có nhiều đơn hàng đóng tàu mới, sẽ hụt thợ tay nghề bậc cao để thiết kế, tổ chức thi công…

Công nghiệp tàu thủy là ngành công nghiệp lớn, liên quan mật thiết nhiều ngành công nghiệp khác, nhất là cơ khí, luyện kim, máy móc cơ khí thủy, điện, điện tử, tự động hóa,... Tuy tỷ suất lợi nhuận của ngành không cao, nhưng lại tác động lan tỏa lớn đến nền kinh tế, thúc đẩy nhiều ngành cùng phát triển. Vấn đề rất quan trọng của ngành đóng tàu là nguồn nhân lực, phải đáp ứng được tiến độ thi công để không bị "kéo giãn" hợp đồng, khiến doanh nghiệp bị thua thiệt. Để chuẩn bị đáp ứng xu hướng đóng tàu thế hệ mới, ngay từ bây giờ, các đơn vị phải chuẩn bị nguồn nhân lực tốt, sẵn sàng thích ứng tiến độ gắt gao do chủ hàng yêu cầu. Các doanh nghiệp đóng tàu mong mỏi Nhà nước có cơ chế, chính sách hỗ trợ hợp lý để thu hút, đào tạo nguồn nhân lực; đồng thời ưu đãi về thuế, vay vốn ngân hàng,... tạo động lực thúc đẩy ngành phát triển.

Có thể bạn quan tâm

Để tạo nên đội ngũ lao động chất lượng cao, cần đổi mới căn bản công tác đào tạo nghề. (Trong ảnh: Lớp học nghề Kỹ thuật máy lạnh và điều hòa của Trường cao đẳng nghề Bắc khoa Hà Nội). Ảnh: Thành Đạt

Bước chuyển đổi về chất

Lời tòa soạn: Sau hơn 40 năm, hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài đã đạt được nhiều kết quả. Trong bối cảnh cạnh tranh ngày một gay gắt, Việt Nam có những chuyển dịch từ trong chính sách cũng như sự chủ động của doanh nghiệp vì mục tiêu hướng đến sự chuyển đổi về chất trong xuất khẩu lao động.

Hàn điện là một trong những ngành "khát" lao động tại nhiều quốc gia.

Lành mạnh và minh bạch hơn

Tình trạng doanh nghiệp không có giấy phép vẫn đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, cộng với nạn lừa đảo đã làm ảnh hưởng lớn đến người lao động. Làm lành mạnh, minh bạch hóa thị trường lao động xuất khẩu trở thành đòi hỏi ngày càng cấp thiết.

Người lao động Việt Nam vốn chăm chỉ, song cần nâng cao chất lượng tay nghề để có thể vươn đến phân khúc thu nhập cao.

Đổi mới căn bản từ đào tạo

Xu hướng chuyển đổi xanh của các nền kinh tế thế giới đòi hỏi Việt Nam phải sớm có chiến lược đào tạo bài bản nhằm chuẩn bị nguồn nhân lực chất lượng cao, có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

Một lớp học tiếng Hàn dành cho học viên chuẩn bị xuất khẩu lao động. Ảnh Văn Học

Xây dựng hệ sinh thái xuất khẩu lao động toàn diện

Thị trường lao động đang ngày càng đòi hỏi người lao động có trình độ tay nghề, kỹ năng cao. Vì thế, công tác đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài cần một sự thay đổi về chất. Đó là chuyển từ "xuất khẩu sức lao động" sang "xuất khẩu nhân lực chất lượng".

Cơ quan chức năng Việt Nam họp với đối tác Hàn Quốc nhằm thúc đẩy hợp tác song phương trong lĩnh vực lao động, việc làm.

Đồng bộ giải pháp mở rộng thị trường thu nhập cao

Ông Đặng Đức Thuận, Phó Cục trưởng Quản lý lao động ngoài nước, Bộ Nội vụ, chia sẻ với Nhân Dân cuối tuần, về những giải pháp trong quản lý nhà nước để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực xuất khẩu lao động. Đi đôi với đó là giảm khâu trung gian, chống lừa đảo, bảo vệ người lao động.

Tại Techno Park, các doanh nghiệp FDI tham gia ngay từ khâu đặt hàng và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao tại chính các nhà máy đạt tiêu chuẩn quốc tế. (Ảnh Vân Nguyễn)

Xu thế mới từ mô hình xuất khẩu tại chỗ

Thay vì phải trả những khoản chi phí không nhỏ cho môi giới xuất khẩu lao động, phải xa gia đình đi làm ăn ở nơi xứ người với rất nhiều khác biệt về văn hóa, khí hậu, thói quen sinh hoạt… nhiều người lao động Việt Nam đang lựa chọn việc làm theo một xu hướng mới.

Anh Lê Lương Nguyên (ngoài cùng bên phải) trao đổi với lao động trong xưởng.

Cú "quay xe" ngoạn mục

Nghệ An là một trong những địa phương có nhiều lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Sau nhiều năm bôn ba xứ người, không ít cá nhân quyết định về nước lập nghiệp, trở thành những tấm gương làm kinh tế giỏi.

Các hình thái thời tiết ngày càng cực đoan buộc các đô thị phải sớm thay đổi cách ứng phó, tăng khả năng chống chịu. (Ảnh THÀNH ĐẠT)

Quy hoạch đô thị và sức đề kháng với thiên tai

Liên tiếp những đợt thiên tai bất thường xảy ra trong hai tháng qua đã khiến nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước gánh chịu những hậu quả khôn lường, và làm bộc lộ nhiều bất cập, đặc biệt là hiện tượng ngập lụt tại các đô thị lớn.

Ứng phó ngập lụt đô thị không chỉ là nhiệm vụ kỹ thuật, mà còn là thước đo năng lực quản trị và tầm nhìn phát triển quốc gia. (Ảnh: Xuân Ngọc)

Chuyển đổi tư duy để chủ động thích ứng

Ngập lụt đô thị đã và đang trở thành vấn đề nổi cộm, kéo dài và khó giải quyết ở hầu hết các thành phố lớn của Việt Nam. Thời gian qua, dù hàng loạt dự án chống ngập được triển khai với vốn đầu tư lớn, nhưng tình trạng nước dâng ngập đường, nhà cửa, khiến giao thông tê liệt và đời sống người dân bị đảo lộn... vẫn tiếp diễn.

Ao Hoàng Giáp trong ngõ 99 Định Công Hạ (phường Định Công, Hà Nội) bị lấn chiếm, dựng nhà tạm và tập kết vật liệu xây dựng. (Ảnh VĂN HỌC)

Khi mặt nước vẫn đang bị thu hẹp

Tình trạng lấn chiếm, lấp ao, hồ, sông, kênh dẫn nước trái phép, không chỉ gây thất thoát tài sản công, mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng thoát nước, thấm nước của Thủ đô Hà Nội.

Công viên trữ nước Chulalongkorn Centenary ở trung tâm thủ đô Bangkok (Thái Lan) có khả năng lưu trữ hơn 1 triệu lít nước nhờ hệ thống hồ chứa liên hoàn. (Nguồn QUYHOACHDOTHI.VN)

Gợi mở từ thế giới

Trải qua hàng thập kỷ gồng mình chống chịu các hiện tượng thời tiết cực đoan, nhiều mô hình đô thị tích hợp khả năng chống chịu biến đổi khi hậu được triển khai ở các quốc gia như: Hà Lan, Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc hay Đức là minh chứng tiêu biểu cho tư duy "sống chung với nước" bằng khoa học, quy hoạch và quản trị hiện đại.

Trao quà cứu trợ đến với người dân vùng lũ tỉnh Đắk Lắk. (Ảnh TTXVN)

Cần chính sách đặc biệt

Hơn một tuần qua, sau đợt mưa lũ lịch sử, các tỉnh Lâm Đồng, Khánh Hòa, Đắk Lắk, Gia Lai vẫn oằn mình nỗ lực vượt qua những tổn thất nặng nề do thiên tai.

Công nhân EVNHANOI sử dụng máy đo nhiệt kiểm tra tình trạng thiết bị điện tại trạm biến áp vận hành không người trực. Ảnh: Thành Đạt

Từ ứng dụng tới làm chủ công nghệ chiến lược

Xuất phát từ chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, và trên tinh thần cụ thể hóa Nghị quyết số 57-NQ/TW; Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, Việt Nam xác định tập trung nguồn lực phát triển các công nghệ chiến lược.

Quang cảnh Hội nghị Cấp cao ASEAN+3 lần thứ 28. (Ảnh VGP/Nhật Bắc)

Cải thiện môi trường kinh doanh nhờ hiện đại hóa quản lý

Một số ngành nghề như kinh doanh "tạm nhập, tái xuất" thực phẩm đông lạnh, xuất khẩu gạo hay dịch vụ kế toán… vốn được xác định là ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Doanh nghiệp hoạt động trong các ngành nghề này thường khá chật vật, chạy đôn chạy đáo để lo hoàn thiện hồ sơ xin giấy phép kinh doanh.

Phó Tổng Giám đốc Qualcomm Gerardo Giaretta nhận định, kỹ sư Việt Nam có trình độ đẳng cấp thế giới.

Cú huých đủ mạnh

Một doanh nghiệp Việt Nam lọt vào báo cáo của Gartner, hệ quy chiếu khắt khe bậc nhất thế giới, có thể chỉ là một lát cắt nhỏ của ngành công nghệ. Nhưng đằng sau đó là tương lai đầy hứa hẹn: Người Việt đủ khả năng bước vào sân chơi công nghệ lõi, song cần có một cú huých đủ mạnh.

Công nhân EVNHANOI kiểm tra vận hành Hệ thống thiết bị đóng cắt hợp bộ. Ảnh: Thành Đạt

Hợp tác ba bên trong phát huy giá trị cốt lõi

Từ một hệ thống chủ yếu vận hành bằng thiết bị nhập khẩu, ngành điện Việt Nam đang bước vào giai đoạn vươn mình, nỗ lực làm chủ các công nghệ lõi, để không bị tụt lại trong xu thế chuyển dịch năng lượng toàn cầu.

Kiểm tra thông số thiết bị điện tại trạm biến áp. (Ảnh Thành Đạt)

Nền tảng quản lý, vận hành tối ưu lưới điện

Với yêu cầu ngày càng cao về chất lượng và độ tin cậy cung cấp điện, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) không ngừng cải thiện nền tảng hạ tầng, ứng dụng các giải pháp công nghệ hiện đại. Trong đó, việc làm chủ nhiều bộ khung công nghệ cốt lõi giúp quá trình quản lý và vận hành lưới điện ngày càng hiệu quả.

Tòa nhà PECC2 Innovation Hub tại Thành phố Hồ Chí Minh đã vận hành BESS công suất 750 kW.

BESS - Gỡ nút thắt cho năng lượng tái tạo

Những năm gần đây, Việt Nam đã vươn lên nhóm quốc gia tăng trưởng năng lượng tái tạo nhanh nhất khu vực. Tuy nhiên, tình trạng nguồn điện sạch vẫn bị bỏ phí cần được ngành điện nhận diện và tìm lời giải.

Trung tâm Điều khiển số tại Trung tâm Điều độ Hệ thống điện Thành phố Hà Nội được xây dựng trên nền tảng hệ thống SCADA. (Ảnh Thành Đạt)

Đo độ phát triển công nghệ, đếm lợi thế cạnh tranh

Công nghệ lõi là những công nghệ nền tảng, có khả năng chi phối chuỗi sản xuất công nghiệp, tạo ra hệ sinh thái sản phẩm, dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Làm chủ công nghệ lõi đồng nghĩa với việc nắm quyền thiết kế, tích hợp và sản xuất hệ thống, từ đó giảm phụ thuộc bên ngoài và nâng cao năng lực tự chủ công nghệ.

Đoàn đánh giá ngoài thuộc Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long tiến hành kiểm định chất lượng một số chương trình đào tạo của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội).

Triết lý giáo dục trong thời đại thời AI

Triết lý giáo dục là nền tảng định hướng cho bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục. Nó không chỉ là khẩu hiệu hay niềm tin chung, mà là hệ quy chiếu giá trị chi phối mọi hoạt động quản lý, giảng dạy và học tập.

Đoàn chuyên gia của Hiệp hội Kiểm định các Trường đại học Nhật Bản kiểm định chất lượng tại Trường đại học Việt Nhật. (Ảnh VJU)

Phép thử với năng lực tự đổi mới

Nếu như kiểm định chất lượng bên ngoài là "tấm gương phản chiếu" khách quan, thì bảo đảm chất lượng bên trong chính là "nội lực" duy trì và phát triển bền vững của chính mỗi trường đại học.

GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Chuyển hóa từ công cụ thành động lực

Đánh giá hiện trạng công tác bảo đảm chất lượng giáo dục đại học và nêu định hướng một số giải pháp là nội dung cuộc phỏng vấn của phóng viên Nhân Dân cuối tuần với GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

PGS, TS Lê Văn Hảo.

Lan tỏa văn hóa chất lượng

Theo PGS, TS Lê Văn Hảo, Ủy viên Hội đồng Kiểm định chất lượng giáo dục của Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long và Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Sài Gòn, các cơ sở giáo dục đại học cần có chiến lược và giải pháp cụ thể để hình thành và phát triển bền vững văn hóa chất lượng của nhà trường.

Sinh viên học tập tại Thư viện Trường đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh. (Nguồn: Website nhà trường)

Tâm tư "người trong cuộc"

Những năm qua, công tác kiểm định chất lượng giáo dục đại học đã được triển khai đồng bộ, có chiều sâu và đạt kết quả tích cực. Tuy nhiên, công tác tự đánh giá và bảo đảm chất lượng giáo dục đại học vẫn còn nhiều khó khăn.

Thiết kế: Khiếu Minh; ảnh: Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam và Thành Đạt

Tinh thần khai phóng và khát vọng sáng tạo

Tháng 11/1925, khóa khai giảng đầu tiên của ngôi trường Mỹ thuật Đông Dương, tiền thân của Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, đã đặt dấu mốc đặc biệt mang tính bước ngoặt cho một cuộc cách mạng thẩm mỹ lớn trong xã hội Việt Nam đương thời.