Chú trọng cải thiện dinh dưỡng
Công tác cải thiện dinh dưỡng được quan tâm, cụ thể hóa bằng nhiều văn bản chỉ đạo, góp phần nâng cao tầm vóc, thể lực cho trẻ em. Các xã, phường tổ chức nhiều buổi truyền thông, giáo dục dinh dưỡng, tư vấn cho phụ nữ mang thai, bà mẹ có con dưới 2 tuổi và bà mẹ có con từ 2 đến 5 tuổi bị suy dinh dưỡng kết hợp với thực hành dinh dưỡng bằng việc huy động sử dụng nguồn thực phẩm sẵn có tại địa phương, sự hỗ trợ nguồn lực và kinh phí của chính quyền địa phương. Hoạt động tư vấn dinh dưỡng cho trẻ bị suy dinh dưỡng, trẻ không tăng cân 3 tháng liền tại cộng đồng; các đợt truyền thông trọng điểm: "Ngày vi chất dinh dưỡng và cân trẻ", "Tuần lễ nuôi con bằng sữa mẹ", "Tuần lễ dinh dưỡng và phát triển", "Tháng hành động vì trẻ em"; giáo dục truyền thông dinh dưỡng trên đài truyền thanh, loa truyền thanh được triển khai. Qua đó, lan tỏa các thông điệp về cải thiện dinh dưỡng trẻ em, phụ nữ có thai, nuôi dưỡng và chăm sóc trẻ em. Phụ nữ mang thai, bà mẹ nuôi con nhỏ thấu hiểu lợi ích khám thai định kỳ và chăm sóc dinh dưỡng cho phụ nữ có thai, các lợi ích nuôi con bằng sữa mẹ, cho trẻ bú sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu, cho trẻ ăn bổ sung hợp lý, bổ sung vi chất dinh dưỡng.
Các sở, ngành, địa phương chủ động triển khai các hoạt động tăng cường việc tiếp cận với các can thiệp trực tiếp phòng chống suy dinh dưỡng, thiếu vi chất dinh dưỡng cho bà mẹ, trẻ em dưới 5 tuổi thuộc hộ gia đình nghèo và cận nghèo. Bà mẹ có con dưới 5 tuổi và bà mẹ mang thai được tư vấn dinh dưỡng lồng ghép với các hoạt động tiêm chủng, đợt khám sức khỏe, chiến dịch cân đo…Phụ nữ có thai chủ động bổ sung đa vi chất dinh dưỡng; trẻ em được theo dõi và quản lý suy dinh dưỡng cấp tính tại cộng đồng; tăng cường hoạt động chất lượng bữa ăn học đường và giáo dục chăm sóc dinh dưỡng.
Tính đến hết tháng 12/2024, tỉnh triển khai các hoạt động can thiệp, trong đó ưu tiên cho các đối tượng thuộc hộ nghèo, cận nghèo, dân tộc thiểu số, vùng núi và hải đảo. Điển hình là chiến dịch bổ sung Vitamin A liều cao cho trẻ em từ 6-35 tháng, phối hợp cân đo theo dõi tăng trưởng cho toàn bộ trẻ dưới 5 tuổi mỗi năm 2 đợt; sản xuất 400 bộ công cụ đánh giá nhanh tình trạng dinh dưỡng nhằm hỗ trợ sàng lọc nhanh trẻ dưới 5 tuổi mắc suy dinh dưỡng cấp tính trong cộng đồng để kịp thời can thiệp. Có địa phương mua sản phẩm dinh dưỡng cung cấp cho trẻ em suy dinh dưỡng thuộc hộ nghèo và cận nghèo. Năm 2023, 1.654 trẻ em tại các xã đặc biệt khó khăn được hỗ trợ cho uống liên tục 1 hộp sữa dinh dưỡng /trẻ/ngày trong vòng 3 tháng. Tỷ lệ trẻ em dân tộc thiểu số được cân đo dưới 5 tuổi mỗi đợt đạt hơn 99%; tỷ lệ trẻ 5 tuổi tại các xã khu vực dân tộc thiểu số, miền núi hải đảo năm 2024 thể nhẹ cân đạt 6,98%, thể thấp còi đạt 9,28%.
Đẩy mạnh giáo dục nghề nghiệp, hỗ trợ việc làm bền vững
Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh Nguyễn Thị Hạnh cho biết, triển khai Tiểu dự án Phát triển giáo dục nghề nghiệp, Ủy ban nhân dân tỉnh đã ban hành các kế hoạch triển khai các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp và chương trình việc làm lồng ghép. Năm 2024, đã đào tạo trình độ cao đẳng 1.022 người; trình độ trung cấp 7.728 người; sơ cấp và đào tạo nghề dưới 3 tháng là 31.975 người. Năm 2025, ước tuyển sinh, đào tạo nghề nghiệp mới cho 40.150 người.
Giai đoạn từ năm 2021-2025, ngân sách địa phương bố trí khoảng hơn 258 triệu đồng để thực hiện chính sách hỗ trợ người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng đối với các đối tượng thuộc diện hỗ trợ; 1,657 tỷ đồng để triển khai thực hiện các hoạt động hỗ trợ việc làm bền vững trên địa bàn tỉnh. Công tác kiểm tra, giám sát, tổ chức lớp tập huấn nâng cao năng lực cho cán bộ làm công tác giảm nghèo các cấp được đẩy mạnh.
Kết quả triển khai Dự án Truyền thông và giảm nghèo về thông tin có nhiều chuyển biến tích cực. Đã hoàn thành xây dựng và phát sóng sóng di động, cáp quang 54/54 trạm, phủ lõm sóng 66/66 thôn, triển khai hạ tầng cung cấp dịch vụ internet băng rộng cố định cho 113/113 thôn (đạt 100% kế hoạch). Đến hết năm 2024, trên địa bàn tỉnh có 5.203 trạm thu phát sóng di động (trạm BTS) (3G,4G,5G). Tỷ lệ dân số được phủ sóng mạng di động 4G đạt 100%; hạ tầng mạng viễn thông băng rộng cố định được triển khai trải rộng khắp trên địa bàn tỉnh, đến các thôn, bản sẵn sàng kết nối và cung cấp dịch vụ cho các hộ đồng bào dân tộc, thiểu số, miền múi, hộ nghèo, cận nghèo.
Các doanh nghiệp viễn thông phối hợp chính quyền địa phương tặng máy điện thoại 4G cho các thuê bao đang dùng điện thoại 2G, đặc biệt là đối tượng người cao tuổi, người dân tộc thiểu số, người có hoàn cảnh khó khăn và các hộ cận nghèo thiếu hụt về phương tiện phục vụ tiếp cận thông tin và sử dụng dịch vụ viễn thông. Các điểm bưu điện văn hóa xã (97% có kết nối internet) phục vụ tốt nhu cầu tiếp cận thông tin của nhân dân.
Chương trình Mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững tại tỉnh Quảng Ninh được thực hiện bằng nguồn kinh phí tỉnh tự cân đối bố trí, đồng thời lồng ghép, huy động các nguồn lực xã hội hoá với sự tham gia, đóng góp tích cực của cộng đồng và người dân. Nguồn vốn thực hiện bảo đảm theo đúng quy định, được giao hằng năm, phù hợp đặc điểm, nhu cầu trên địa bàn. Tổng kinh phí thực hiện dự án giai đoạn 2021-2025 được giao là 4.818,91 triệu đồng (đối với Dự án truyền thông và giảm nghèo về thông tin; nâng cao năng lực và giám sát, đánh giá thực hiện Chương trình). Khi triển khai thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp, công tác giải ngân, thực hiện mục tiêu của Chương trình không gặp khó khăn, vướng mắc.
Tỉnh Quảng Ninh thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững bằng nguồn kinh phí tỉnh tự cân đối bố trí, không thuộc đối tượng được hỗ trợ từ ngân sách Trung ương. Trên cơ sở Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới và Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2026-2030 của Trung ương; tỉnh sẽ bố trí kinh phí phù hợp với đặc điểm, nhu cầu thực tế của địa phương, bảo đảm thống nhất và phù hợp về mục tiêu, đối tượng, nội dung, tránh chồng chéo giữa các Kế hoạch thực hiện trên địa bàn tỉnh.
Trên nền tảng vững chắc của những thành công đã đạt được, tỉnh tập trung triển khai thực hiện đồng bộ các chính sách, giải pháp nhằm duy trì kết quả giảm nghèo, chú trọng nâng cao chất lượng cuộc sống người dân, nâng mức chuẩn nghèo, phát triển bền vững và toàn diện khu vực nông thôn, góp phần hiện thực hóa mục tiêu phát triển nhanh, bền vững, bao trùm của tỉnh.
Công tác rà soát, xác định hộ nghèo, hộ cận nghèo, phân loại đối tượng, mức độ thiếu hụt dịch vụ xã hội cơ bản được quan tâm để phân công cụ thể cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp theo dõi, chỉ đạo, hướng dẫn, giúp đỡ hộ nghèo, hộ cận nghèo phù hợp, kịp thời. Cùng với đó, đa dạng hóa hình thức huy động các nguồn lực, gắn với lồng ghép các chương trình, dự án khác để thực hiện hiệu quả các chương trình, chính sách giảm nghèo. Thực hiện các chính sách an sinh xã hội và hỗ trợ đặc thù theo chuẩn nghèo đa chiều quốc gia: hỗ trợ về bảo hiểm y tế, giáo dục, nhà ở; phát triển nguồn nhân lực và đào tạo nghề; tập trung đào tạo nghề gắn với nhu cầu thị trường lao động, hỗ trợ việc làm cho thanh niên nông thôn, lao động dân tộc thiểu số, phụ nữ; hỗ trợ pháp lý và tiếp cận thông tin; cải thiện dinh dưỡng và sức khỏe cộng đồng.
Để phát triển kinh tế bền vững, tỉnh đẩy mạnh xây dựng nông thôn mới nâng cao, hiện đại, văn minh; tăng cường khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn; phát huy vai trò chủ thể của người dân trong việc xây dựng và thực hiện các dự án, mô hình phát triển tại địa phương. Tập trung hỗ trợ các mô hình sản xuất nông nghiệp công nghệ cao, phát triển sản phẩm OCOP, kết nối thị trường, khai thác tiềm năng du lịch của các vùng nông thôn, tạo sinh kế mới và nâng cao thu nhập cho người dân nông thôn. Tiếp tục đầu tư hoàn thiện hạ tầng giao thông, thủy lợi, điện, nước sạch, thông tin liên lạc; nâng cao chất lượng dịch vụ y tế, giáo dục, văn hóa, thể thao ở khu vực nông thôn, đặc biệt là các xã vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Trong giai đoạn mới, Quảng Ninh tiếp tục hoàn thiện các cơ chế, chính sách đặc thù của tỉnh để phù hợp điều kiện thực tiễn và mục tiêu phát triển; đa dạng hóa nguồn vốn đầu tư, khuyến khích sự tham gia của các doanh nghiệp, tổ chức xã hội và cộng đồng; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, đánh giá định kỳ và đột xuất để bảo đảm hiệu quả của chương trình, kịp thời điều chỉnh các chính sách và giải pháp. Bên cạnh đó, nâng cao hiệu quả quản lý quy hoạch cấp xã, quy hoạch vùng; quy hoạch phát triển ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản đã được phê duyệt; từng bước lập quy hoạch chi tiết xây dựng nhằm quản lý chặt chẽ, hoạt động đầu tư xây dựng, quản lý không gian, kiến trúc cảnh quan ở khu vực ven các đô thị; các xã thuần nông có lợi thế đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp gắn với du lịch, dịch vụ.
Đến ngày 30/6/2025, toàn tỉnh còn 8 hộ nghèo và 1.197 hộ cận nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều của tỉnh. Các hoạt động hỗ trợ được triển khai lồng ghép trong các chương trình, dự án đặc thù theo chuyên môn và chức năng, nhiệm vụ được giao của các sở, ngành.