Vẫn còn... rất Huế

NDO - Sau ngày thống nhất đất nước (1975), về thành phố tôi vẫn làm việc ở Ban Tuyên huấn Thành ủy Huế. Trong không khí cả nước xây dựng kinh tế cho chủ nghĩa xã hội, tôi mang nặng mặc cảm “Huế là thành phố tiểu tư sản”, “Cố đô phong kiến phi sản xuất”, “thành phố ăn bám”. Tôi không nghĩ như vậy nhưng lại không đủ lý lẽ để làm dịu bớt mặc cảm của mình. Bởi vậy, mỗi lần được nghe một vị lãnh đạo, hay một cán bộ văn hóa khen một điều gì đó trong đời thường ở Huế, tôi ghi ngay vào tâm trí, rồi tự mình nghiên cứu, tìm hiểu cặn kẽ và lấy đó làm hạnh phúc.

Tôi nhớ ngày đó ông Trần Anh Liên - người Hà Nội, Bí thư Thành ủy Huế, sau khi đi dự tiệc chiêu đãi các vị lãnh đạo ngoài Trung ương vào thăm, về nói với cán bộ Ban Tuyên huấn chúng tôi: Được ăn các món do phụ nữ Huế nấu, đồng chí Lê Duẩn bảo đại ý rằng: “Xây dựng kinh tế thì cần tinh thần tập thể, chuyện ẩm thực thì phải phát huy sự tinh tế của cá nhân như của các bà phụ nữ Huế đây. Còn ẩm thực mà cũng tập thể nữa thì Việt Nam không còn món ngon nào để ăn”. Ông Trần Anh Liên mượn lời đồng chí Lê Duẩn để giao nhiệm vụ cho chúng tôi phải gìn giữ món ăn Huế. Tôi rất mừng. Tôi bắt đầu thực hiện một bộ sưu tập sách báo viết về ẩm thực Huế từ Thực phổ bách thiên (cuối thế kỷ 19) qua các sách do Trường nữ công học Hội của Đạm Phương nữ sử (những năm ba mươi của thế kỷ 20), đến sách dạy nữ sinh Đồng Khánh nấu ăn của Hoàng Thị Kim Cúc... Sách nấu các món ăn mặn, các món ăn chay, món tráng miệng, từ các món bình dân cho đến đại yến chiêu đãi các quốc khách, từ các món ăn chơi (các loại bánh, các loại chè) đến các món ăn để chữa bệnh, v.v. Mấy chục năm qua, món ăn Huế không ngừng được đề cao, phát huy. Ngày nay ẩm thực Huế không những phát triển mạnh ở Huế mà đã lan ra trên toàn quốc và ra cả nước ngoài.

Đề cập đến ẩm thực Huế không thể không nói đến phẩm hạnh của người phụ nữ Huế. Sau 26 ngày đêm làm chủ thành phố Huế trong Tết Mậu Thân (1968), nhà báo Ngô Kha (phụ trách báo Cờ Giải Phóng) trở lại Trường Sơn, anh kể cho tôi nghe nhiều chuyện mà anh rất ngạc nhiên khi tiếp xúc với người Huế. Một hôm, anh được một gia đình ở đường Nguyễn Du (khu phố 4 Gia Hội) mời cơm. Cả nhà ngồi vào ăn với khách, nhưng có một cô nữ sinh loay hoay dưới bếp chứ không lên ngồi vào bàn ăn. Ngô Kha hỏi: “Sao cô con gái của gia đình lại không ăn?”. Bà chủ nhà đáp: “Con gái trong nhà không được phép ngồi ăn với khách đàn ông lạ!”. Ngô Kha bất ngờ: “Té ra con gái Huế nhà lành như rứa đó!”. Chỉ một chuyện nhỏ mà nó đã sửa cho anh biết bao sai lầm mỗi khi anh nghĩ về con gái Huế trong vùng tạm chiếm trước đây.

Đến sau năm 1975, phụ nữ Huế sợ mặc áo dài không phù hợp với phong cách xã hội chủ nghĩa nên “xếp tàng y lại”, tập mặc áo cụt hay mặc Âu phục. Bà xã tôi tận dụng các vạt áo dài thời đi dạy ở Trường Đồng Khánh để may đồ bộ cho con gái tôi. Rồi một hôm có một cuộc hội thảo ở Trường Mỹ thuật Huế, có người hỏi ý kiến của đồng chí Nguyễn Khoa Điềm - Trưởng ban Tuyên giáo Thành ủy Huế về chiếc áo dài của phụ nữ Huế và được trả lời đại ý rằng: “Người phụ nữ mặc áo dài bước đi, hai vạt áo nâng bổng họ lên nhẹ nhàng như họ bay trong không gian, rất đẹp, có vấn đề gì đâu mà ngại. Vấn đề là phải mặc cho đúng lúc!”. Từ đó chiếc áo dài trở lại với phụ nữ Huế. Áo dài là một “đặc sản” của Việt Nam. Không ngừng được cách tân. Người nghệ sĩ gốc Huế nổi tiếng Minh Hạnh và hàng chục nhà thiết kế thời trang khác đã đưa tà áo dài Huế, áo dài phụ nữ Việt Nam hội nhập quốc tế, tiên tiến mà đậm đà bản sắc dân tộc. Ngày nay nhiều phụ nữ Việt Nam mặc váy đầm thì cũng không hiếm nhiều phụ nữ Âu, Mỹ đẹp lộng lẫy với tà áo dài Việt Nam.

Sau gần bốn mươi năm thống nhất đất nước, nhiều người Hà Nội gặp tôi còn hỏi: “Sau ngày giải phóng, mình vào Huế công tác, thấy dân chúng đi ngang qua các trường học vào lúc học sinh các trường đang chào cờ, mọi người đều dừng lại, giở mũ, đứng nghiêm. Không biết bây giờ ra sao...?”. Hoặc “Bây giờ ở Huế có còn cảnh đi ngoài đường gặp đám tang mọi người đều đứng lại giở mũ chào nữa không?”. Tôi phải thú thật trả lời rằng: “Không còn. Nhưng trong lòng người Huế thì còn cả. Nếu thấy đó là một nét nhân văn đẹp thì cũng có thể phục hồi lại được”.

Trên đây chỉ là vài nét biểu hiện đời thường của người Huế. Nếu khách được sống trong các gia đình người Huế lâu lâu một chút thì sẽ còn phát hiện thêm nhiều điều ít thấy ở các địa phương khác. Nhà người Huế nào cũng dành một không gian trang trọng nhất để thờ Phật, thờ người quá cố - “Tiền Phật hậu linh”. Ít nhất có bốn đời (thế hệ) còn ảnh hưởng nhau trong gia đình: ông bà, cha mẹ, con và cháu. Một dòng sống - gồm cả người đã khuất - không dứt tạo nên truyền thống Huế rất sinh động: Kỵ giỗ thờ cúng người quá cố, thăm viếng tu sửa mồ mả, việc họ, việc làng, kính trọng người cao tuổi, đi chùa, chia sẻ, làm từ thiện, thủy chung, học hành. Cùng nói giọng Huế, tự hào với người Cố đô - di sản văn hóa của nhân loại, có nền ca nhạc truyền thống riêng, có nhiều món ăn ngon, có chiếc áo dài đẹp, có nhiều kỷ niệm xuất thân từ các trường học nổi tiếng Quốc Học - Đồng Khánh... người Huế dễ gần nhau, nhất là những người đi làm ăn xa.

Được các cấp lãnh đạo khuyến khích, mấy mươi năm qua tôi đã cùng với nhiều đồng nghiệp dấn thân vào việc nghiên cứu Huế và có người nói đã hình thành được ngành “Huế học”. Nhưng cũng có nhiều nhà nghiên cứu bảo tôi: “Các nhà “Huế học” mới khai thác được phần hiển lộ của nếp sống Huế chứ thật sự cái trầm tích nhân văn của Huế còn dày lắm, chúng ta chưa khai thác được gì!”. Đúng như vậy. Nhưng dù sao cái mặc cảm Huế sau năm 1975 của tôi đã được cởi bỏ. Di tích lịch sử văn hóa Huế, nhã nhạc cung đình Huế đã được công nhận là di sản văn hóa của nhân loại. Huế là thành phố đầu tiên của nước Việt Nam được chọn làm thành phố Festival. Và, hiện nay tỉnh Thừa Thiên- Huế đang phấn đấu để trong tương lai gần xin Quốc hội cho phép tỉnh trở thành thành phố Huế - thành phố nhân văn, để Việt Nam còn giữ được một cố đô văn vật. Những biểu hiện truyền thống nhân văn của người Huế là cơ sở không thể thiếu của cái cố đô văn vật ấy.

* Nói đến con gái Huế, phụ nữ Huế người ta nghĩ ngay đến chiếc áo dài và chiếc nón bài thơ. Chiếc áo dài phụ nữ Huế ra đời từ đầu thế kỷ 18 dưới thời chúa Nguyễn Phúc Khoát/Hoạt. Áo dài là một nét đẹp độc đáo của người con gái Huế.