Tiếng hát đưa người vượt lên đạn lửa

Đã có rất nhiều bài viết, bài phê bình nghiên cứu về thơ Phạm Tiến Duật từ các góc nhìn khác nhau. Tôi muốn viết riêng về một tín hiệu thẩm mỹ đặc biệt trong thơ ông, xuất hiện từ những bài thơ đầu tiên ở Trường Sơn cho đến nhiều thi phẩm trong những giai đoạn sau, đó là tiếng hát.

Văn công biểu diễn trên đường Trường Sơn. Ảnh tư liệu
Văn công biểu diễn trên đường Trường Sơn. Ảnh tư liệu

1/Nhiều người vẫn thường nói, thơ Phạm Tiến Duật là một bảo tàng sống về Trường Sơn. Toàn bộ đời sống của người lính với những gì gian khổ, ác liệt, hiểm nguy nhất đều có thể tìm thấy trong thơ Phạm Tiến Duật. Với một nhà thơ - chiến sĩ bước vào chiến trường khi tuổi mới ngoài đôi mươi, ta có thể tưởng tượng ra những hăm hở nhiệt thành nồng nàn của tuổi trẻ. 

Và tiếng hát có lẽ đã bắt đầu cất lên như thế: “Trận địa pháo vừa bắn rơi phản lực/Có tiếng em hát rộn khúc quân hành/Ôi tiếng hát hay từng viên đạn nổ/Cũng bay lên gìn giữ trời xanh” (Em gái văn công, 1965). Tiếng hát đã vượt lên bom đạn của kẻ thù, tiếng hát là sự sống và sức sống mãnh liệt không bao giờ dứt. Tiếng hát trở thành một nguồn lực động viên tinh thần cho những người lính đang ngày đêm chiến đấu chống thù. Trong bài thơ “Tiếng bom ở Seng Phan”, Phạm Tiến Duật có hai câu thơ được nhiều người yêu thích: “Thế đấy, giữa chiến trường/Nghe tiếng bom rất nhỏ”. Tiếng bom thì nhỏ nhưng tiếng hát của những người lính thì chắc chắn là vang vọng: “Vẫn ngỡ tiếng mưa, giật mình thức dậy/Hóa ra là giọng hò em đấy/…Tiếng hòm chạm nhau thay cho nhạc dạo/Mỗi câu hò thêm một chuyến xe qua…/Đêm nay anh đi trên xe không ngủ/Nghe câu hò đất nước sinh sôi” (Nghe hò đêm bốc vác). 

Những câu hò tiếng hát có thể vang lên trong bất cứ hoàn cảnh nào, cả khi thảnh thơi lẫn khi bận rộn. Câu hát tiếng hò ấy là niềm lạc quan không bao giờ tắt, là lòng yêu đời yêu cuộc sống mê say: “Nơi tắt lửa là nơi dài tiếng hát/Đoàn thanh niên xung phong phá đá sửa đường” (Lửa đèn). Tiếng hát vừa để động viên nhau, vừa xua tan những khó khăn gian khổ: “Mùi bộc phá trộn vào trong tiếng hát”. Và cùng với Phạm Tiến Duật, đã có bao nhà thơ - chiến sĩ cất lên tiếng hát trong những năm tháng ấy: “Ta hát lên là chúng nó chẳng còn/Lửa bùng cháy khắp chi khu Cam Lộ/Trăm tên giặc vừa đền tội đó/Mùa thu này ta hát khắp Trường Sơn (Thư mùa thu - Hoàng Nhuận Cầm).

2/Trong thơ Phạm Tiến Duật, có những lần tiếng hát đã trở thành đại tiệc. Ấy là khi một buổi biểu diễn được tổ chức trang trọng để dành tặng cho những người chiến sĩ. Những người lính có những khoảnh khắc được tạm xếp lại bao bận rộn hiểm nguy của cuộc chiến để thưởng thức những lời ca: “Tiếng em hát Người ơi/Người thân nhau mãi mãi/Tiếng em hát Đò ơi/Sông đưa đò gần lại/Tiếng em hát Cây ơi/Cây nhú thêm mầm mới/Tiếng nồng say em gọi/ Náo nức tuổi trăng lên/Cái giọng thì của em/Mà lời anh đấy nhỉ/Giữ em chẳng được nào/Hẹn nhau ngày thắng Mỹ (Người ơi người ở). Hình như người lính nào cũng yêu văn nghệ, cũng say mê tiếng hát. Cho nên, khi lời ca vừa dứt thì nỗi quyến luyến không muốn rời nhau cũng là điều có thật.

Tiếng hát của những người con gái giữa đại ngàn, có thể họ là những ca sĩ được đào tạo ít nhiều, lại cũng có khi chỉ là tiếng hát của một nữ giao liên hay dân quân bình thường. Tiếng hát ấy có thể chưa tốt về mặt kỹ thuật như một nhận xét khách quan của chính người nghe: “Nghe em hát mà anh buồn cười/Nhịp với phách xem chừng sai cả/Mồ hôi em ướt đầm trên má/Anh với mọi người nhìn nhau khen hay” (Nghe em hát trong rừng). Nhưng có hề gì, điều quan trọng là tình cảm của con người ở đằng sau tiếng hát ấy. Người nghe hát cảm thấy được yêu thương và người cất lên tiếng hát cũng cảm thấy được yêu thương.

3/Sau 1975, tiếng hát vẫn trở về trong những bài thơ của Phạm Tiến Duật. Người lính sống trong thời bình vẫn không quên những tiếng hát giữa đại ngàn năm nào. Anh tìm trong tiếng hát ấy những sẻ chia và đồng cảm: “Như chiều nào rừng già/Ngả nghiêng cây gió thổi/Ngả nghiêng người bổi hổi/Nhịp đập tay rền vang…/Giọng hát tựa vào nhau/Âm thanh càng rực rỡ/… Như thuở ấy chiến trường/Cùng bạn bè anh hát/Ở hội trường vừa về/ Lòng vẫn còn ào ạt/Trước mặt giờ mình em/Riêng mình anh anh hát” (Nhớ đồng ca, hát đồng ca). Quả thực, tiếng hát trong thơ Phạm Tiến Duật khiến con người gần nhau hơn, yêu thương nhau hơn: “Thì cứ hát đi, ừ phải, mưa rơi/Hay câu hát dầm dề thì cũng vậy/Tôi nhìn thẳng vào em và bỗng thấy/Trên vai em tròn loang nhẹ vết bùn khô” (Chiều mưa ở Tiền Hải nghe chèo).

Tiếng hát mãi mãi là một trẻ trung bất tận trong thơ Phạm Tiến Duật, là khát khao đồng cảm và giao hòa với cuộc đời. Ngay cả khi cô đơn, chỉ còn lại một mình, thì tiếng hát trở thành một phẩm chất tự thân, hát cho chính mình để quên đi tháng năm tuổi tác, để yêu hơn nữa cuộc sống này: “Sẽ đến lúc ta trở thành cụ già/Nhưng tới đó hãy hay, giờ ta còn trẻ chán/Bắt chước cụ già không khó lắm/Cụ già bắt chước mình mới khó sao…/Nhưng có điều xin bè bạn đừng quên/Chính khúc hát thanh xuân này các cụ già mách bảo/Ta nhẩm lại bỗng thấy mình kiêu ngạo/Nên lại hát tuổi mình ở chính bàn tay” (Khúc hát thanh xuân).