Ông Trần Viết Ngãi, Chủ tịch Hiệp hội Năng lượng Việt Nam:

“Nếu không có giải pháp đột phá, thiếu điện là nỗi lo của nhiều năm sau”

Ông Trần Viết Ngãi, Chủ tịch Hiệp hội Năng lượng Việt Nam, trao đổi với Nhân Dân hằng tháng về nguyên nhân của tình trạng thiếu điện gay gắt ở miền bắc mới đây và đề xuất một số giải pháp cho nguy cơ thiếu điện và tụt hậu về năng lượng mà Việt Nam đang phải đối mặt.
 “Nếu không có giải pháp đột phá, thiếu điện là nỗi lo của nhiều năm sau”

Ông đánh giá thế nào về tình trạng thiếu điện gay gắt mới đây và theo dự báo sẽ còn kéo dài?

Theo Tổng sơ đồ điện VII, chúng ta đã xây dựng được một số nhà máy điện, kể cả điện than, điện khí và thủy điện. Những năm trước đây, 3 tập đoàn: Tập đoàn Điện lực Việt Nam, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, Tập đoàn Than khoáng sản Việt Nam triển khai thực hiện các dự án điện rất tốt.

Sau khi Quy hoạch điện VII được điều chỉnh đến nay, rất nhiều công trình, các dự án phát triển nguồn điện chưa hoàn thành. Nhiệt điện Na Dương công suất 110 MW sử dụng than lưu huỳnh tự cháy, Nhiệt điện Hải Phòng 3, Nhiệt điện Quảng Trạch I và II, Nhiệt điện khí Ô Môn, Điện khí Cá Voi Xanh đều chưa triển khai hoặc triển khai rất chậm.

Mới đây, Thủ tướng Chính phủ vừa phê duyệt Quy hoạch điện VIII, trong đó có đưa Quy hoạch điện VII điều chỉnh vào, nhưng không nêu cụ thể chủ đầu tư của từng dự án cũng như cơ chế chính sách, giải pháp, vốn như thế nào để thực hiện các dự án còn lại của quy hoạch điện VII điều chỉnh.

Nay chúng ta cần có cơ chế, chính sách vốn để tiếp tục triển khai các dự án, trước đây chưa hoàn thành. Các dự án phát triển nguồn điện trong Quy hoạch điện VIII cần được giao cho chủ đầu tư là ai, thực hiện dự án nào, vốn thu xếp ra sao, thời gian bao lâu thì hoàn thành. Việc này cần sự chỉ đạo từ cơ quan trung ương, tới bộ ngành, tới các địa phương liên quan để triển khai thực hiện.

Nhiều năm qua, ở phía bắc hầu như không có thêm dự án điện nào được đầu tư mới trong khi theo tính toán, hệ thống điện mỗi năm cần bổ sung ít nhất 5.000-6000 MW mới.

Các dự án trong Quy hoạch điện VII đã không được triển khai vì nhiều lý do khác nhau, trong đó một số địa phương không chấp nhận dự án nhiệt điện than, một số dự án gặp khó khăn về vốn.

Trong các dự án năng lượng tái tạo, điện gió ngoài khơi rất có giá trị. Tập đoàn Enterprise Energy (Anh) đầu tư dự án điện gió ngoài khơi lớn nhất Việt Nam cách bờ gần nhất 20 km, xa nhất 50 km ở mũi Kê Gà, Bình Thuận, đã xin Chính phủ cấp phép khảo sát và công việc này đã hoàn thành. Dự án này đầu tư 5 tỷ USD, có công suất 4.500 MW bằng ba nhà máy nhiệt điện than nhưng đến nay vẫn chưa được triển khai. Đáng nói hơn, các dự án điện gió ngoài khơi cho công suất rất lớn dự kiến hoàn thành vào năm 2030 cũng chưa được triển khai do vướng chính sách.

Quy hoạch Điện VIII đã chậm ban hành, song ban hành rồi vẫn chưa hướng dẫn. Quy hoạch có đến 500 dự án truyền tải điện, nhưng không hướng dẫn dự án nào Nhà nước phải đầu tư, dự án nào cho tư nhân tham gia, nên mọi thứ vẫn chậm. Nếu trong thời gian tới, Chính phủ, các bộ, ngành, các địa phương liên quan không có quyết sách, đột phá về cơ chế chính sách, vốn thì các dự án điện còn kéo dài nhiều năm.

Theo ông, nguyên nhân của việc chậm trễ là gì và cần có giải pháp nào để “phá băng” những dự án phát triển nguồn điện?

Nguyên nhân chậm theo tôi là do công tác chỉ đạo và giải pháp thực hiện còn chưa tốt. Chúng ta đang vướng mắc về cơ chế, chính sách, giải pháp thực hiện. Trình một dự án lên để xin phép đầu tư có thể kéo dài hàng năm, thậm chí nhiều năm.

Thời kỳ Thủ tướng Võ Văn Kiệt làm đường dây 500 KV dài 1.500 km chỉ trong 2 năm là xong, đó là một kỳ tích mà thế giới chưa nước nào làm được. Sở dĩ có kỳ tích đó vì nói đi đôi với làm, làm đến nơi đến chốn, làm không được thì kỷ luật.

Giờ đây, các nhà máy điện chậm triển khai vì giải pháp để nhà đầu tư thực hiện dự án đúng tiến độ rất kém. Một vấn đề nữa là tiền vốn ở đâu để đầu tư? Đầu tư một dự án phát triển nguồn điện đòi hỏi nguồn vốn rất lớn. Cứ một nhà máy điện than nhỏ cỡ 1.200 MW sẽ cần khoảng 1,5 tỷ USD, số tiền ấy lấy đâu ra?

Trong Quy hoạch điện VIII, theo tính toán giai đoạn 2021-2030, ước tính tổng vốn đầu tư phát triển nguồn và lưới điện truyền tải tương đương 134,7 tỷ USD nhưng cần trả lời được câu hỏi là chia ra từ nay đến năm 2030 thì mỗi năm cần bao nhiêu tỷ USD? Trước đây có vốn ODA của Nhật Bản hỗ trợ để phát triển nguồn điện nhưng giờ không còn nguồn này nữa.

Theo tôi, hiện nay các dự án trong Quy hoạch điện VII phải tập trung làm cho xong, không thể dang dở mãi. Trong Quy hoạch điện VIII, cần chỉ rõ nhà đầu tư nào làm dự án nào cũng như thời hạn nào phải hoàn thành. Nếu tổ chức đấu thầu thì cũng phải nêu rõ. Muốn đấu thầu phải phát hành hồ sơ, duyệt hồ sơ mời thầu. Bỏ thầu, duyệt thầu, nhà đầu tư nào đạt yêu cầu mới công bố cho thực hiện. Nhưng hiện nay, thủ tục này của chúng ta làm rất phức tạp, có khi mấy năm chưa xét duyệt được một nhà thầu.

Khi mà thủy điện đã đến giới hạn, theo ông trong tương lai Việt Nam nên ưu tiên phát triển nhiệt điện, khí điện hay năng lượng tái tạo?

Theo quan điểm của tôi, trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam không còn con đường nào khác là tập trung vào phát triển nhiệt điện than, nhiệt điện khí và năng lượng tái tạo. Cùng với đó, chính sách giá điện phải phù hợp để hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước, khai thác tối đa tiềm năng của các nhà đầu tư tư nhân.

Nhiệt điện than đóng góp vai trò rất lớn trong các thời kỳ cách mạng của chúng ta và hiện vẫn đóng vai trò nòng cốt trong nền kinh tế Việt Nam. Hơn 30 năm đổi mới, hàng năm nhiệt điện than đóng góp hàng trăm tỷ kWh cho phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Càng ngày thì công nghệ sản xuất điện than càng tiên tiến. Với công nghệ ngày nay, người ta không còn dùng lò hơi là lò tầng sôi nữa mà chuyển sang lò hơi siêu tới hạn.

Và hiện đại hơn bây giờ là công nghệ siêu siêu tới hạn, tức là lò đốt đó có nhiệt trị rất cao và dùng loại than cám đặc biệt. Lò đốt siêu tới hạn và siêu siêu tới hạn có một số ưu điểm như: tro xỉ gần như không còn, các chất độc như CO2, SO2, NOx... thải ra cũng không còn bao nhiêu nữa vì bản thân lò hơi đó đã triệt tiêu những loại khí này rồi.

Ngoài các dự án năng lượng truyền thống, cần phát triển các dự án năng lượng tái tạo như: Điện gió, điện mặt trời mặt đất, mặt trời áp mái. Nhưng năng lượng tái tạo phụ thuộc vào thiên nhiên như nắng, gió vì vậy cũng cần đưa công nghệ lưu điện vào trong hệ thống, nhằm điều tần, điều áp, điều chỉnh phụ tải cho hệ thống điện.

Cùng với đó, Việt Nam cũng cần tính đến phương án nhập khẩu khí hóa lỏng (LNG), tận dụng những nhà máy khí hiện nay đang có và phát triển thêm 5.000 MW đến 10.000 MW. Tuy nhiên, đây mới chỉ là lý thuyết. Để triển khai hiệu quả các dự án điện không hề đơn giản. Thực tế, có nhiều dự án điện BOT đã đăng ký, nhưng chưa triển khai do giá điện Việt Nam vẫn chưa có sức thu hút các nhà đầu tư.

Trong nhiều năm nữa, nếu Chính phủ, Bộ Công thương và các bộ khác liên quan không có cơ chế, chính sách, giải pháp, vốn để đầu tư phát triển các dự án chưa hoàn thành, nguy cơ thiếu điện sẽ đến. EVN vừa qua bị lỗ liên tục do giá bán điện không điều chỉnh hợp lý. Do đó Chính phủ, Bộ Công thương cần có phương án giá điện hợp lý để EVN không lỗ, có lãi để tích lũy phát triển các dự án điện mới.

Điện được ví như “bánh mì” của nền công nghiệp và điện phải “đi trước một bước” nhưng với tình hình hiện nay nguy cơ tụt hậu về năng lượng của Việt Nam đang cận kề. Ông đánh giá thế nào về nguy cơ này?

Điện luôn phải đi trước một bước, thậm chí Lê-nin đã đưa ra công thức nổi tiếng: “Chủ nghĩa cộng sản là chính quyền Xô-viết cộng với điện khí hóa toàn quốc”. Chúng ta đang đứng trước nguy cơ tụt hậu về năng lượng, nếu không có các giải pháp đột phá, thiếu điện không phải là nỗi lo của riêng năm nay mà còn của nhiều năm về sau nữa. Thiếu điện vì thiếu nguồn điện. Giai đoạn 2019-2021 có hơn 20.000 MW năng lượng tái tạo được bổ sung vào hệ thống điện quốc gia, còn lại các nguồn điện khác không có bao nhiêu. Năm nay, chỉ còn 1.200 MW của Nhà máy điện than Vân Phong 1 vào hoạt động, sau đó là không có thêm các nguồn nào đủ lớn để bù đắp lượng điện thiếu.

Việt Nam có khoảng 100 triệu dân, nhưng tổng công suất điện vẫn còn thấp so với nhiều nước trong khu vực. Từ nay đến năm 2040, chúng ta ít nhất phải có 400.000 MW, nếu không đầu tư phát triển nguồn điện thì không đáp ứng được.

Để hệ thống điện có đủ năng lực đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội đến năm 2030, cả hệ thống chính trị phải vào cuộc quyết liệt; phải có sự đồng lòng, quyết tâm rất lớn, giống như tinh thần của Thủ tướng Võ Văn Kiệt khi xây dựng đường dây 500 KV mạch 1, đó là nói đi đôi với làm, làm đến nơi đến chốn. Và giờ đây, chúng ta cần tinh thần ấy để thực hiện Quy hoạch điện VIII - tôi cho rằng đó là một cuộc cách mạng về năng lượng.

Xin trân trọng cảm ơn ông!

Có thể bạn quan tâm

Ông Jensen Huang (đứng giữa), Chủ tịch kiêm CEO NVIDIA, mong muốn đưa Việt Nam trở thành “ngôi nhà thứ hai” của Tập đoàn. Ảnh | NIC

Dòng FDI vào chu kỳ tăng trưởng mới

Trước những biến động lớn của dòng đầu tư toàn cầu những năm gần đây, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vẫn tiếp tục đổ vào Việt Nam một cách mạnh mẽ. Quan trọng hơn, xu hướng dịch chuyển của FDI ngày càng rõ nét với sự dẫn dắt của nhiều dự án lớn trong các ngành công nghệ chiến lược.

Trao quyết định của Ban Thường vụ Đảng ủy Chính phủ công nhận công trình chào mừng Đại hội đại biểu Đảng bộ Chính phủ lần thứ I cho đại diện Đảng ủy Tổng công ty Đường sắt Việt Nam.

Những công trình khơi dậy khát vọng phát triển

Được coi là năm bản lề quan trọng, năm 2025 các phong trào thi đua được phát động, lan tỏa rộng khắp và nhiều công trình chào mừng đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội XIV của Đảng và các ngày lễ, kỷ niệm trọng đại của đất nước được khởi công, nỗ lực về đích.

PGS, TS Nguyễn Đức Lộc.

Không ai bị bỏ lại phía sau trong quá trình chuyển đổi xanh

Việc tiến tới cấm xe máy sử dụng nhiên liệu hóa thạch trong khu vực vành đai 1 Hà Nội từ năm 2026 là một bước đi mạnh mẽ trong lộ trình chuyển đổi xanh, thể hiện cam kết của Chính phủ trong nỗ lực giảm phát thải và phát triển giao thông bền vững.

Các diễn giả tham gia thảo luận về các sáng kiến đột phá phát triển Trung tâm tài chính tại Việt Nam.

Từ lời hứa đến hành động thực thi

Trung tâm tài chính (TTTC) quốc tế không phải là ước vọng thuần túy về dòng vốn, mà hơn thế, đó là “bài kiểm tra năng lực” thể chế. Thế nên trên thực tế “tấm giấy thông hành” đầu tiên Việt Nam cần có không chỉ là quy hoạch, cơ sở hạ tầng hay các tòa cao ốc lộng lẫy, mà chính là niềm tin!

Hội nghị triển khai Nghị quyết của Quốc hội về Trung tâm tài chính quốc tế tại Việt Nam.

Quyết tâm hiện thực hóa một tầm nhìn chiến lược

Trong xu thế số hóa mạnh mẽ, sự dịch chuyển dòng vốn toàn cầu mở ra nhiều cơ hội mới, việc QH chính thức ban hành Nghị quyết số 222/2025/QH15 về xây dựng trung tâm tài chính quốc tế tại Việt Nam ở TP Hồ Chí Minh và TP Đà Nẵng là một bước đi chiến lược, tạo bệ phóng kinh tế, đưa đất nước tham gia vào thị trường tài chính toàn cầu

Thành phố Hồ Chí Minh đang vươn mình khẳng định vị thế mới. Ảnh | THẾ ANH

Tương lai trong tầm tay

Tìm “cơ” trong “nguy”, những con người “đội trời, đạp đất”, với truyền thống “Cùng cả nước, vì cả nước”, chắc chắn sẽ tìm ra những động lực mới để đưa con tàu Thành phố Hồ Chí Minh “đi trước và về đích trước” trong kỳ vọng của nhân dân cả nước.

Vẽ trang trí trên sản phẩm tại Công ty cổ phần gốm Chu Đậu (Hải Phòng). Ảnh | KHIẾU MINH

Biến nỗi lo thành cơ hội

Ðối mặt với chi phí gia tăng, áp lực tuân thủ và những thay đổi nhanh chóng về chính sách, nhiều doanh nghiệp nhỏ tưởng như bị đẩy vào thế khó.

Các hộ kinh doanh cá thể chuyển đổi sang doanh nghiệp giúp mở rộng quy mô và tăng độ tin cậy với đối tác. Ảnh | ANH QUÂN

Phép thử với các doanh nghiệp nhỏ

Không còn là khẩu hiệu hay chọn lựa, “làm đúng luật” đang trở thành điều kiện bắt buộc trong môi trường kinh doanh ngày càng minh bạch. Nhưng trong cuộc chơi mới ấy, nhiều doanh nghiệp nhỏ đang loay hoay giữa áp lực tuân thủ và nỗi lo bị đào thải. Vậy họ còn cơ hội nào để thích nghi và tồn tại?

Mô hình thu phí tự động không dừng đa làn tự do không barie đầu vào (free-flow) lần đầu tiên được áp dụng ở Việt Nam tại cao tốc Nha Trang-Cam Lâm do đội ngũ kỹ sư người Việt của ELCOM thiết kế, sản xuất.

“Cởi trói” cho công nghệ Make in Vietnam

Quốc hội vừa thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ðấu thầu, có hiệu lực thi hành từ 1/7/2025, chính thức tạo ra hành lang pháp lý mới nhằm khơi thông những điểm nghẽn lâu nay với các gói thầu công nghệ cao.

Chợ 4.0 Đồng Xuân, nhiều hộ kinh doanh vẫn thu tiền mặt khi bán hàng.

Cơ hội cho ai?

Dù là bước đi tất yếu để hướng tới một nền kinh tế minh bạch, các chính sách thuế mới đang tạo ra xáo trộn lớn trong cấu trúc thị trường. Các chủ thể không chỉ buộc phải thích ứng, mà còn phải chủ động tái định hình lợi thế cạnh tranh để nắm bắt cơ hội và khẳng định vị thế trong cuộc chơi mới.

Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì cuộc họp với các bộ, ngành để rà soát các công việc chuẩn bị đàm phán thương mại với Hoa Kỳ. Ảnh | ĐỨC ANH

Chủ động, linh hoạt ứng phó

Chính sách thuế quan của Hoa Kỳ, đặc biệt là các động thái áp thuế đối ứng với hàng hóa nhập khẩu từ nhiều quốc gia, đã và đang tạo ra những biến động, rủi ro và bất ổn chưa từng thấy cho thương mại toàn cầu, trong đó có kinh tế Việt Nam vốn tăng trưởng dựa trên xuất khẩu với độ mở kinh tế cao.
Cơ sở dệt thổ cẩm của gia đình nghệ nhân Sầm Thị Tình tại làng thổ cẩm Hóa Tiến, xã Châu Tiến, huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An. Ảnh | NGUYỄN HÙNG

Tháo “vòng kim cô” cho hộ kinh doanh

Nghị quyết số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân vừa được ban hành thể hiện bước tiến đột phá về tư duy, tạo điều kiện để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ và bền vững. Những rào cản, khó khăn, thách thức đối với hộ kinh doanh được kỳ vọng sớm tháo gỡ trong thời gian tới.
Hạng mục dự án mở rộng hầm đường bộ Hải Vân của Tập đoàn Đèo Cả.

Cần những “sếu đầu đàn” dẫn dắt

Kinh tế tư nhân được xác định là một trong những động lực quan trọng của tăng trưởng. Việt Nam cần những tập đoàn đủ mạnh, có quy mô khu vực và toàn cầu. Từ đó trở thành “sếu đầu đàn” dẫn dắt doanh nghiệp nhỏ và vừa, cũng như cả nền kinh tế vươn xa trên nền tảng tự chủ.
Thiếu tướng Nguyễn Quốc Toản.

Chuyên đề: “Công an xã, phường: Hiệu lực, hiệu quả cho người dân và doanh nghiệp”

Từ ngày 1/3/2025, sau khi bắt đầu thực hiện chủ trương không tổ chức Công an cấp huyện, ngành Công an chỉ còn 3 cấp: Bộ, tỉnh, xã (công an cơ sở). Như vậy, ngoài chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao, công an cấp cơ sở còn đảm nhiệm thêm nhiều trọng trách mới. Trước đó, thực hiện Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 15/3/2018 của Bộ Chính trị, Bộ Công an đã đẩy mạnh triển khai xây dựng Công an xã chính quy trên phạm vi toàn quốc, lấy “chủ động phòng ngừa từ sớm, từ xa, từ cơ sở” là chính, lấy cơ sở là địa bàn trung tâm để tập trung các biện pháp phòng, chống tội phạm. Nhằm kịp thời phản ánh những hoạt động, chuyển biến của lực lượng công an cơ sở trong bối cảnh mới, vị thế mới, vận hội mới, Nhân Dân hằng tháng số tháng 5 thực hiện Chuyên đề: “Công an xã, phường: Hiệu lực, hiệu quả cho người dân và doanh nghiệp”.
Công an phường Mộc Sơn (thị xã Mộc Châu, Sơn La) nêu cao tinh thần phục vụ nhân dân.

Công an cơ sở vùng Tây Bắc: Vào cuộc không chậm trễ

Buổi sáng nắng gắt gao, trụ sở Công an phường Mường Thanh đã nhộn nhịp hơn lệ thường. Tại địa điểm tiếp công dân, nhiều người đã tới từ sớm để làm thủ tục cấp đổi căn cước. Sinh năm 2006, Nguyễn Quang Trung đang được Ðại úy Phùng Thế Tân lấy mống mắt theo quy định mới của Luật Căn cước. Từ thời điểm 1/3 vừa qua, khi chủ trương giải thể Công an cấp huyện có hiệu lực, cũng như lực lượng Công an tiếp nhận thêm nhiều chức năng nhiệm vụ mới từ các bộ, ngành, Công an phường Mường Thanh đã trở thành một điểm cấp đổi căn cước cho người dân thành phố Ðiện Biên Phủ.
Công an xã Thống Nhất họp bàn trao đổi công việc.

Bước chuyển tích cực

Thực hiện chủ trương của Bộ Công an, ngay từ những tháng cuối năm 2019, Công an xã Thống Nhất (thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh) đã được Ban Giám đốc Công an tỉnh điều động, bố trí 4 cán bộ chính quy thuộc Công an huyện Hoành Bồ đảm nhiệm các chức danh Công an xã Thống Nhất. Cùng với đòi hỏi từ thực tế, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chung, đơn vị tiếp tục được bổ sung quân số lên 10 người (gồm 9 cán bộ, chiến sĩ và 1 công nhân hợp đồng). Lực lượng không nhiều, nhưng Công an xã Thống Nhất đã góp phần bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn vốn tiềm ẩn nguy cơ phức tạp vì liên quan đến đền bù, giải phóng mặt bằng.
Tuyến đường sắt tốc độ cao trên trục bắc-nam chính là khâu đột phá, tạo nền tảng về hạ tầng để đất nước bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. (Ảnh phối cảnh minh họa).

Công trình biểu tượng của khát vọng phát triển

“Chủ trương đầu tư đường sắt tốc độ cao trên trục bắc-nam là lựa chọn mang tính chất chiến lược và là công trình biểu tượng ở kỷ nguyên vươn mình của đất nước. Cần thống nhất nhận thức và hành động của cả hệ thống chính trị trong việc huy động tối đa các nguồn lực để đầu tư hoàn thành đồng bộ toàn tuyến, trong đó ngân sách nhà nước giữ vai trò chủ đạo và quyết định”.
Sinh viên Đại học Việt Đức học tập tại trường.

Hiện thực hóa mục tiêu trở thành trung tâm tài chính quốc tế

TP Hồ Chí Minh - một trung tâm kinh tế năng động đang được kỳ vọng trở thành Trung tâm Tài chính Quốc tế của Việt Nam. Trong bước chuyển mang tầm chiến lược đó, việc chuẩn bị và phát triển nguồn nhân lực tài chính chất lượng cao là nhiệm vụ sống còn, đặt ra yêu cầu đổi mới toàn diện cho giáo dục đại học. Ðây cũng là thời điểm để các cơ sở đào tạo và người học cùng nhập cuộc, định hình vị trí trong một sân chơi toàn cầu.
Mô hình trồng hoa tại xã Khánh Nhạc, huyện Yên Khánh. Ảnh | TRƯỜNG GIANG

Những mùa đổi thay trên quê hương Ninh Bình

Từ độ cao lặng im của bầu trời, Ninh Bình trải ra như một bức tranh sống - nơi màu xanh non của lúa, sắc thẫm của vườn cây quyện cùng gam nâu trầm mặc của di sản, đan xen những tia sáng hiện đại từ các khu công nghiệp, đô thị mới. Nhưng hơn cả cảnh sắc, chính con người nơi đây - những người đang cần mẫn sống, làm việc và kiến tạo - mới là nét chấm phá sinh động nhất, đang từng ngày vẽ tiếp hành trình đổi mới trên vùng đất cố đô nghìn năm tuổi.