Mở sàn giao dịch, thúc đẩy chuyển đổi xanh

Dù mới thương mại hóa tín chỉ carbon khoảng 4-5 năm, nhưng hoạt động mua-bán tín chỉ carbon tại Việt Nam đã thu hút sự tham gia của không ít nhà đầu tư, doanh nghiệp.
Mô hình khởi nghiệp của anh Trần Văn Thiệu, khóm 4, phường Tân Thành (TP Cà Mau, Cà Mau) trồng dưa lưới tiêu chuẩn VietGAP theo công nghệ của Israel. Ảnh: Lê Phương
Mô hình khởi nghiệp của anh Trần Văn Thiệu, khóm 4, phường Tân Thành (TP Cà Mau, Cà Mau) trồng dưa lưới tiêu chuẩn VietGAP theo công nghệ của Israel. Ảnh: Lê Phương

Khi thị trường dần hình thành

Ở quy mô cấp vùng và ngành, sau thành công của ngành Lâm nghiệp khi hoàn tất chuyển nhượng 10,3 triệu tín chỉ carbon từ rừng cho Ngân hàng Thế giới (WB) với giá 51,5 triệu USD vào năm 2020 và chương trình khí sinh học của ngành chăn nuôi Việt Nam, với 60 triệu USD thu được từ bán tín chỉ carbon giai đoạn 2020-2024.

Hiện đã có hơn 300 chương trình, dự án tín chỉ carbon được đăng ký, trong đó, 150 dự án với 40,2 triệu tín chỉ carbon đã đăng ký giao dịch trên thị trường quốc tế, hơn 270 dự án cơ chế phát triển sạch (CDM) được các doanh nghiệp đầu tư, với khoảng 29,4 triệu tín chỉ carbon đã được phát hành.

Một số tập đoàn lớn như CT Group, Tín Thành đã tiên phong đầu tư các sàn giao dịch tín chỉ carbon và bắt đầu thu hút sự quan tâm của các doanh nghiệp trong việc đăng ký giao dịch khí thải và các loại tín chỉ carbon. Còn BSB Nanotech, Lasuco, FPT IS hay Công ty cổ phần Net Zero Carbon… bắt đầu triển khai thương mại hóa tín chỉ carbon trong lĩnh vực nông nghiệp, chăn nuôi, năng lượng sạch.

Tại một số địa phương, nhiều nông dân, hợp tác xã tham gia các chương trình canh tác bền vững và cũng được nhận “tiền tươi thóc thật” từ việc thực hành giảm phát thải trong canh tác lúa. Chẳng hạn, tại huyện Châu Thành (An Giang) và huyện Krông Ana (Đắk Lắk), nhiều nông dân, hợp tác xã đã nhận được hàng chục triệu đồng từ phía doanh nghiệp đầu tư vào tín chỉ carbon.

Hay tại Nông trại Thiên Nông (tỉnh Bình Phước), ông Đặng Dương Minh Hoàng, Giám đốc trang trại, cho biết đang triển khai mô hình “game hóa” vườn cây, tức cho phép người dùng tham gia trải nghiệm nông nghiệp công nghệ cao với một khoản phí nhất định.

Trong bối cảnh thị trường tín chỉ carbon tại Việt Nam chưa chính thức đi vào hoạt động, ông Hoàng mong muốn, có thể thử nghiệm việc trao đổi tín chỉ carbon thông qua các hoạt động này.

Tại Hà Nội, từ tháng 6/2025 tới đây đến năm 2028, Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội sẽ xây dựng và thí điểm cung ứng dịch vụ sàn giao dịch carbon trong nước. Các loại hàng hóa giao dịch dự kiến, gồm: hạn ngạch phát thải khí nhà kính; tín chỉ carbon do Bộ Nông nghiệp và Môi trường xác nhận. Mỗi hàng hóa sẽ được cấp mã số duy nhất, bảo đảm không trùng lặp.

Về hình thức giao dịch, chủ thể tham gia giao dịch sẽ có tài khoản lưu ký. Tổng công ty Lưu ký và Bù trừ Chứng khoán Việt Nam (VSDC) sẽ cung ứng dịch vụ lưu ký, thanh toán. Việc thanh toán tự động trên cơ sở kết quả giao dịch do HNX thực hiện theo nguyên tắc chuyển giao hàng hóa đồng thời với thanh toán tại ngân hàng. Có thể nói, đến nay, cơ sở pháp lý để triển khai thị trường giao dịch tín chỉ carbon đã khá rõ ràng.

Kinh tế xanh đang trở thành xu hướng tất yếu trong bối cảnh nhu cầu phát triển bền vững ngày càng cấp bách. Một trong những yếu tố quan trọng của kinh tế xanh là tài chính xanh, dựa trên nền tảng thị trường carbon”.

PGS, TS Nguyễn Đình Thọ, Phó Viện trưởng Chiến lược và chính sách nông nghiệp.

Lối mở gia nhập thị trường tín chỉ carbon

Trước viễn cảnh tín chỉ carbon có thể trở thành một kênh đầu tư kiếm lời tốt khi nhu cầu sở hữu tín chỉ carbon ngày càng tăng cao, PGS, TS Nguyễn Đình Thọ, Phó Viện trưởng Chiến lược và chính sách nông nghiệp và môi trường, Bộ Nông nghiệp và Môi trường khuyến nghị, cần tập trung xây dựng thị trường tín chỉ carbon xoay quanh các lĩnh vực như: năng lượng tái tạo, xe điện và các công nghệ giảm phát thải lớn.

Các quốc gia như Thái Lan, Trung Quốc hay châu Âu cũng thực hiện chính sách bắt buộc chuyển đổi từ xe xăng sang xe điện, khuyến khích người dân sử dụng phương tiện công cộng thay vì phương tiện cá nhân. Đồng thời, các nước này cũng phân vùng phát thải để chuyển dần từ khu vực có mức phát thải cao sang khu vực có mức phát thải thấp hơn. Theo đó, việc xây dựng khu vực kiểm soát phát thải, phát triển tín chỉ carbon từ xe điện sẽ góp phần phục hồi hệ sinh thái, nâng cao chất lượng sống cho người dân. “Hiện Thành phố Hồ Chí Minh chưa có trung tâm xử lý phát thải tập trung, nếu xây dựng được một trung tâm như vậy, không chỉ giúp kiểm soát ô nhiễm tốt hơn mà còn có thể tận dụng cơ hội phát hành tín chỉ carbon”, ông Thọ nhấn mạnh.

Còn theo TS Lê Xuân Nghĩa, Viện trưởng Tư vấn phát triển tài chính carbon (CODE), điều cần làm là tạo lập một sàn giao dịch, nơi người bán, kẻ mua và nhà đầu cơ cùng hoạt động, giúp giá tín chỉ carbon phản ánh đúng sự vận động của thị trường, từ đó nâng cao hiệu quả của công cụ tín chỉ carbon đối với mục tiêu giảm phát thải.

Việt Nam có thể tham khảo một số quốc gia đã triển khai sàn giao dịch tín chỉ carbon. Cụ thể như Nhật Bản, quốc gia này đã lựa chọn một số đơn vị mua, bán tín chỉ carbon tham gia vào một sàn giao dịch phi tập trung (OTC). Và đến tháng 10/2024, khi các đơn vị đã thành thạo trong giao dịch tín chỉ carbon, sàn giao dịch này mới tích hợp với sàn chứng khoán Tokyo. “Nghĩa là sàn giao dịch tín chỉ carbon có thể tận dụng cơ sở sẵn có của sàn chứng khoán làm tăng tính thuận tiện cho các giao dịch tín chỉ carbon, từ đó hấp dẫn đơn vị, tổ chức và cá nhân tham gia”, ông Nghĩa phân tích.

Trong tương lai, theo ông Nghĩa, tín chỉ carbon có thể được sử dụng như một tài sản thế chấp, thậm chí còn được các tổ chức tín dụng yêu thích hơn so bất động sản. Bởi thế chấp bất động sản hàm chứa rủi ro về việc định giá không đúng với giá trị thật hoặc rủi ro khi thị trường bất động sản sụp đổ. Còn với tín chỉ carbon, khi sàn giao dịch đi vào hoạt động, giá cả đã rõ ràng trên thị trường, lại có xu thế luôn tăng giá trong tương lai. Trong trường hợp khách hàng không trả nợ, ngân hàng hoàn toàn có thể bán phần tín chỉ carbon được sử dụng để thế chấp, hạn chế rủi ro nợ xấu.

Có thể bạn quan tâm

Để tạo nên đội ngũ lao động chất lượng cao, cần đổi mới căn bản công tác đào tạo nghề. (Trong ảnh: Lớp học nghề Kỹ thuật máy lạnh và điều hòa của Trường cao đẳng nghề Bắc khoa Hà Nội). Ảnh: Thành Đạt

Bước chuyển đổi về chất

Lời tòa soạn: Sau hơn 40 năm, hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài đã đạt được nhiều kết quả. Trong bối cảnh cạnh tranh ngày một gay gắt, Việt Nam có những chuyển dịch từ trong chính sách cũng như sự chủ động của doanh nghiệp vì mục tiêu hướng đến sự chuyển đổi về chất trong xuất khẩu lao động.

Cơ quan chức năng Việt Nam họp với đối tác Hàn Quốc nhằm thúc đẩy hợp tác song phương trong lĩnh vực lao động, việc làm.

Đồng bộ giải pháp mở rộng thị trường thu nhập cao

Ông Đặng Đức Thuận, Phó Cục trưởng Quản lý lao động ngoài nước, Bộ Nội vụ, chia sẻ với Nhân Dân cuối tuần, về những giải pháp trong quản lý nhà nước để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực xuất khẩu lao động. Đi đôi với đó là giảm khâu trung gian, chống lừa đảo, bảo vệ người lao động.

Các hình thái thời tiết ngày càng cực đoan buộc các đô thị phải sớm thay đổi cách ứng phó, tăng khả năng chống chịu. (Ảnh THÀNH ĐẠT)

Quy hoạch đô thị và sức đề kháng với thiên tai

Liên tiếp những đợt thiên tai bất thường xảy ra trong hai tháng qua đã khiến nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước gánh chịu những hậu quả khôn lường, và làm bộc lộ nhiều bất cập, đặc biệt là hiện tượng ngập lụt tại các đô thị lớn.

Ứng phó ngập lụt đô thị không chỉ là nhiệm vụ kỹ thuật, mà còn là thước đo năng lực quản trị và tầm nhìn phát triển quốc gia. (Ảnh: Xuân Ngọc)

Chuyển đổi tư duy để chủ động thích ứng

Ngập lụt đô thị đã và đang trở thành vấn đề nổi cộm, kéo dài và khó giải quyết ở hầu hết các thành phố lớn của Việt Nam. Thời gian qua, dù hàng loạt dự án chống ngập được triển khai với vốn đầu tư lớn, nhưng tình trạng nước dâng ngập đường, nhà cửa, khiến giao thông tê liệt và đời sống người dân bị đảo lộn... vẫn tiếp diễn.

Ao Hoàng Giáp trong ngõ 99 Định Công Hạ (phường Định Công, Hà Nội) bị lấn chiếm, dựng nhà tạm và tập kết vật liệu xây dựng. (Ảnh VĂN HỌC)

Khi mặt nước vẫn đang bị thu hẹp

Tình trạng lấn chiếm, lấp ao, hồ, sông, kênh dẫn nước trái phép, không chỉ gây thất thoát tài sản công, mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng thoát nước, thấm nước của Thủ đô Hà Nội.

Công viên trữ nước Chulalongkorn Centenary ở trung tâm thủ đô Bangkok (Thái Lan) có khả năng lưu trữ hơn 1 triệu lít nước nhờ hệ thống hồ chứa liên hoàn. (Nguồn QUYHOACHDOTHI.VN)

Gợi mở từ thế giới

Trải qua hàng thập kỷ gồng mình chống chịu các hiện tượng thời tiết cực đoan, nhiều mô hình đô thị tích hợp khả năng chống chịu biến đổi khi hậu được triển khai ở các quốc gia như: Hà Lan, Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc hay Đức là minh chứng tiêu biểu cho tư duy "sống chung với nước" bằng khoa học, quy hoạch và quản trị hiện đại.

Trao quà cứu trợ đến với người dân vùng lũ tỉnh Đắk Lắk. (Ảnh TTXVN)

Cần chính sách đặc biệt

Hơn một tuần qua, sau đợt mưa lũ lịch sử, các tỉnh Lâm Đồng, Khánh Hòa, Đắk Lắk, Gia Lai vẫn oằn mình nỗ lực vượt qua những tổn thất nặng nề do thiên tai.

Công nhân EVNHANOI sử dụng máy đo nhiệt kiểm tra tình trạng thiết bị điện tại trạm biến áp vận hành không người trực. Ảnh: Thành Đạt

Từ ứng dụng tới làm chủ công nghệ chiến lược

Xuất phát từ chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, và trên tinh thần cụ thể hóa Nghị quyết số 57-NQ/TW; Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, Việt Nam xác định tập trung nguồn lực phát triển các công nghệ chiến lược.

Quang cảnh Hội nghị Cấp cao ASEAN+3 lần thứ 28. (Ảnh VGP/Nhật Bắc)

Cải thiện môi trường kinh doanh nhờ hiện đại hóa quản lý

Một số ngành nghề như kinh doanh "tạm nhập, tái xuất" thực phẩm đông lạnh, xuất khẩu gạo hay dịch vụ kế toán… vốn được xác định là ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Doanh nghiệp hoạt động trong các ngành nghề này thường khá chật vật, chạy đôn chạy đáo để lo hoàn thiện hồ sơ xin giấy phép kinh doanh.

Phó Tổng Giám đốc Qualcomm Gerardo Giaretta nhận định, kỹ sư Việt Nam có trình độ đẳng cấp thế giới.

Cú huých đủ mạnh

Một doanh nghiệp Việt Nam lọt vào báo cáo của Gartner, hệ quy chiếu khắt khe bậc nhất thế giới, có thể chỉ là một lát cắt nhỏ của ngành công nghệ. Nhưng đằng sau đó là tương lai đầy hứa hẹn: Người Việt đủ khả năng bước vào sân chơi công nghệ lõi, song cần có một cú huých đủ mạnh.

Công nhân EVNHANOI kiểm tra vận hành Hệ thống thiết bị đóng cắt hợp bộ. Ảnh: Thành Đạt

Hợp tác ba bên trong phát huy giá trị cốt lõi

Từ một hệ thống chủ yếu vận hành bằng thiết bị nhập khẩu, ngành điện Việt Nam đang bước vào giai đoạn vươn mình, nỗ lực làm chủ các công nghệ lõi, để không bị tụt lại trong xu thế chuyển dịch năng lượng toàn cầu.

Kiểm tra thông số thiết bị điện tại trạm biến áp. (Ảnh Thành Đạt)

Nền tảng quản lý, vận hành tối ưu lưới điện

Với yêu cầu ngày càng cao về chất lượng và độ tin cậy cung cấp điện, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) không ngừng cải thiện nền tảng hạ tầng, ứng dụng các giải pháp công nghệ hiện đại. Trong đó, việc làm chủ nhiều bộ khung công nghệ cốt lõi giúp quá trình quản lý và vận hành lưới điện ngày càng hiệu quả.

Tòa nhà PECC2 Innovation Hub tại Thành phố Hồ Chí Minh đã vận hành BESS công suất 750 kW.

BESS - Gỡ nút thắt cho năng lượng tái tạo

Những năm gần đây, Việt Nam đã vươn lên nhóm quốc gia tăng trưởng năng lượng tái tạo nhanh nhất khu vực. Tuy nhiên, tình trạng nguồn điện sạch vẫn bị bỏ phí cần được ngành điện nhận diện và tìm lời giải.

Trung tâm Điều khiển số tại Trung tâm Điều độ Hệ thống điện Thành phố Hà Nội được xây dựng trên nền tảng hệ thống SCADA. (Ảnh Thành Đạt)

Đo độ phát triển công nghệ, đếm lợi thế cạnh tranh

Công nghệ lõi là những công nghệ nền tảng, có khả năng chi phối chuỗi sản xuất công nghiệp, tạo ra hệ sinh thái sản phẩm, dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Làm chủ công nghệ lõi đồng nghĩa với việc nắm quyền thiết kế, tích hợp và sản xuất hệ thống, từ đó giảm phụ thuộc bên ngoài và nâng cao năng lực tự chủ công nghệ.

Đoàn đánh giá ngoài thuộc Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long tiến hành kiểm định chất lượng một số chương trình đào tạo của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội).

Triết lý giáo dục trong thời đại thời AI

Triết lý giáo dục là nền tảng định hướng cho bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục. Nó không chỉ là khẩu hiệu hay niềm tin chung, mà là hệ quy chiếu giá trị chi phối mọi hoạt động quản lý, giảng dạy và học tập.

Đoàn chuyên gia của Hiệp hội Kiểm định các Trường đại học Nhật Bản kiểm định chất lượng tại Trường đại học Việt Nhật. (Ảnh VJU)

Phép thử với năng lực tự đổi mới

Nếu như kiểm định chất lượng bên ngoài là "tấm gương phản chiếu" khách quan, thì bảo đảm chất lượng bên trong chính là "nội lực" duy trì và phát triển bền vững của chính mỗi trường đại học.

GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Chuyển hóa từ công cụ thành động lực

Đánh giá hiện trạng công tác bảo đảm chất lượng giáo dục đại học và nêu định hướng một số giải pháp là nội dung cuộc phỏng vấn của phóng viên Nhân Dân cuối tuần với GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

PGS, TS Lê Văn Hảo.

Lan tỏa văn hóa chất lượng

Theo PGS, TS Lê Văn Hảo, Ủy viên Hội đồng Kiểm định chất lượng giáo dục của Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long và Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Sài Gòn, các cơ sở giáo dục đại học cần có chiến lược và giải pháp cụ thể để hình thành và phát triển bền vững văn hóa chất lượng của nhà trường.

Sinh viên học tập tại Thư viện Trường đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh. (Nguồn: Website nhà trường)

Tâm tư "người trong cuộc"

Những năm qua, công tác kiểm định chất lượng giáo dục đại học đã được triển khai đồng bộ, có chiều sâu và đạt kết quả tích cực. Tuy nhiên, công tác tự đánh giá và bảo đảm chất lượng giáo dục đại học vẫn còn nhiều khó khăn.

Thiết kế: Khiếu Minh; ảnh: Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam và Thành Đạt

Tinh thần khai phóng và khát vọng sáng tạo

Tháng 11/1925, khóa khai giảng đầu tiên của ngôi trường Mỹ thuật Đông Dương, tiền thân của Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, đã đặt dấu mốc đặc biệt mang tính bước ngoặt cho một cuộc cách mạng thẩm mỹ lớn trong xã hội Việt Nam đương thời.  

Lê Anh Vân, Chiến lũy, sơn dầu, 100 x 129,5cm, 1984. trong Sưu tập của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

Chủ động thay đổi để phát triển

Nhân Dân cuối tuần ghi nhận ý kiến của một số nhà giáo, nghệ sĩ, nhà sưu tập trong và ngoài nước về sự chuyển dịch của vị thế mỹ thuật Việt Nam trong đời sống văn hóa tinh thần của người Việt Nam nói riêng, trên bình diện quốc tế nói chung. 

Tô Ngọc Vân, Hai thiếu nữ và em bé, sơn dầu, 100,2 x 75cm, sáng tác năm 1944, trong danh mục Bảo vật quốc gia, thuộc sưu tập của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

Những cơn sóng trào của khát vọng sáng tạo

Việc thành lập và nhanh chóng đi vào hoạt động của Trường Mỹ thuật Đông Dương đã góp phần quan trọng tạo nên bước ngoặt nhận thức của một lớp người Việt Nam về tính cá nhân và giá trị của sáng tạo cá nhân trong xã hội.

Triển lãm các bài nghiên cứu hình hoạ của nhiều thế hệ sinh viên nhà trường, tháng 9/2025, thu hút sự quan tâm của đông đảo giới chuyên môn. Ảnh: Mai Loan

Dưỡng chất cho mầm xanh nghệ thuật

Suốt hành trình 100 năm qua, Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, tiền thân là Trường Mỹ thuật Đông Dương, dù trải qua nhiều biến động lịch sử lớn lao nhưng luôn giữ vững mục tiêu đào tạo nghệ sĩ-người sáng tạo trong lĩnh vực mỹ thuật.

Đại diện hậu duệ danh hoạ Nguyễn Phan Chánh trao những suất học bổng đầu tiên của Quỹ mang tên ông cho sinh viên Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, tháng 10/2025.

Tự tin vượt qua nhiều giới hạn

Đông Nam Á vốn luôn được xem là một vùng ngoại vi của nghệ thuật đương đại thế giới, cho dù trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày một sâu rộng. Những định chế nghệ thuật lớn vẫn “cư ngụ” ở châu Âu và Bắc Mỹ.