Bộ trưởng Thông tin và Truyền thông Nguyễn Mạnh Hùng

“Không để báo chí tự bươn chải với thị trường”

“Báo chí phải truyền đi khát vọng về một Việt Nam hùng cường, lan tỏa, biến khát vọng đấy thành động lực để đưa Việt Nam trở thành nước công nghiệp hàng đầu”, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Thông tin và Truyền thông, Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương Nguyễn Mạnh Hùng đã chia sẻ với Báo Nhân Dân trong dịp Kỷ niệm 99 năm Ngày Báo chí cách mạng Việt Nam 21/6/2024.
Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng. Ảnh: Trần Hải
Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng. Ảnh: Trần Hải

Phóng viên: Đội ngũ những người làm báo đang hướng tới sự kiện Kỷ niệm 100 năm Ngày Báo chí cách mạng Việt Nam. Trong hành trình gần 100 năm qua, dường như chưa bao giờ báo chí phải đối mặt với nhiều áp lực, khó khăn như lúc này: Chịu sự cạnh tranh gay gắt từ truyền thông mạng, mạng xã hội; thậm chí doanh thu quảng cáo cũng mất phần lớn vào tay các nền tảng mạng xã hội… Vậy báo chí cần vượt qua những thách thức này như thế nào để phát huy sứ mệnh: “khơi dậy khát vọng về một Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc” thưa Bộ trưởng?

Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng: Gần 100 năm qua, theo suốt tiến trình của cách mạng Việt Nam, báo chí có vai trò to lớn trong việc cổ vũ, động viên toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta trong công cuộc giành, giữ độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị, phát triển kinh tế, xã hội; cùng với đất nước đổi mới, bứt phá vươn lên; khơi dậy khát vọng về một Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc. Trong hành trình ấy, báo chí đã và sẽ có nhiều giai đoạn thăng trầm. Dù bất kỳ hoàn cảnh nào, báo chí luôn vượt qua, đổi mới và phát triển mạnh mẽ.

Báo chí phải cân bằng, vừa phải làm tốt nhiệm vụ chính trị, vừa phải sống được, phải cạnh tranh, phải có quảng cáo, phải đa dạng nguồn thu. Nếu chỉ đặt mục tiêu lợi nhuận hoặc nghiêng nhiều về phía này mà xem nhẹ chức năng định hướng chính trị, giáo dục thẩm mỹ thì báo chí sẽ đánh mất các thiên chức cao đẹp của mình. Theo tôi, cũng cần xác định thế này: Báo chí không phải là mạng xã hội nên đừng bao giờ đặt vấn đề cạnh tranh với mạng xã hội. Làm sao cạnh tranh được với mạng xã hội, như Facebook chẳng hạn, một năm họ chi hàng chục tỷ USD đầu tư? Cái nên học mạng xã hội là chú trọng phát triển công nghệ để làm nghề của mình tốt hơn. Mạng xã hội giải bài toán về tin tức là tốt, họ có hàng triệu hoặc hàng chục triệu, thậm chí hàng trăm triệu cộng tác viên ở mọi nơi mọi ngõ ngách trong đời sống xã hội và không phải trả tiền. Nói về nhanh thì mạng xã hội rất nhanh. Nhưng tin tức trên mạng xã hội có thể thiếu độ xác thực. Vậy báo chí phải chuyển khỏi sự ganh đua tin tức. Phần tin tức báo chí cần giải bài toán xác thực, kiểm chứng và phân tích, đánh giá, xem cái gì, điều gì nằm ở sau cả núi thông tin kia. Điều này thì mạng xã hội không thể làm được báo chí cần phải làm, có đủ thẩm quyền để làm tốt. Tôi tin là báo chí kế thừa truyền thống, đi vào công nghệ số, đổi mới, bứt phá mạnh mẽ nên sẽ vượt qua những khó khăn trước mắt.

Phóng viên: Thực tế, báo chí hầu hết phải tự chủ nguồn thu. Con số từ chính Bộ Thông tin và Truyền thông đưa ra, nếu gộp cả các cơ quan báo, đài tự chủ và chưa tự chủ tài chính thì ngân sách nhà nước chỉ chiếm 23% tổng thu, 77% còn lại là thu từ dịch vụ. Mỗi năm đầu tư cho báo chí chưa đến 0,2% tổng chi đầu tư của ngân sách, là mức rất thấp, khoảng hơn 1.000 tỷ đồng, thưa Bộ trưởng?

Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng: Báo chí hiện có khoảng 25% nguồn thu từ ngân sách, 75% là nguồn tự chủ. Cấu thành này cũng có bất cập. Một số cơ quan báo chí lớn, có tầm ảnh hưởng truyền thông rộng khắp lại đang sống bằng nguồn thị trường. Trong khi các cơ quan báo chí nhỏ, tầm ảnh hưởng đến truyền thông không nhiều thì chủ yếu dựa vào ngân sách nhà nước, tới 70%, 80% thậm chí 90%... Thế nên phải cân bằng, cơ quan báo chí lớn, chủ lực phải có nguồn kinh phí từ ngân sách nhà nước đủ lớn cả về khía cạnh đầu tư, cả về kinh phí thường xuyên. Tự chủ thì tạo cơ chế tài chính linh hoạt cho báo chí, người lao động có mức thu nhập cao hơn, từ đó năng suất lao động cũng sẽ cao hơn. Có điều, nhiều báo khi nguồn thu tốt thì muốn tự chủ, nhưng nguồn thu khó khăn thì lại muốn có hỗ trợ đặt hàng. Bộ Thông tin và Truyền thông thời gian qua đã cùng với báo chí tháo gỡ khó khăn, rà soát, đề xuất sửa đổi quy định về cơ chế chính sách, như đề xuất Bộ Tài chính sửa đổi, bổ sung cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập, cơ chế đặt hàng, định giá dịch vụ công sử dụng ngân sách nhà nước, tháo gỡ khó khăn cho cơ quan báo chí theo quy định tại Nghị định số 60/2021/NĐ-CP ngày 21/6/2021, Nghị định số 32/2019/NĐ-CP ngày 10/4/2019 và quy định chi tiết thi hành Luật Giá, chính sách thuế với cơ quan báo chí; bố trí tài chính theo hướng đặt hàng, giao nhiệm vụ.

Phóng viên: Một phần không nhỏ kinh phí hoạt động của báo chí do tự chủ nguồn thu, tuy nhiên lại phải chịu những ràng buộc rất chặt chẽ về chi tiêu, gây nên nhiều bất cập trong thực tế, thưa Bộ trưởng?

Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng: Bộ đang sửa, đề xuất sửa một số thể chế, theo hướng phần 30% từ ngân sách nhà nước phải tuân theo quy định, còn phần 70% do báo chí tự chủ thì được tuân theo cơ chế như doanh nghiệp. Đây sẽ là một bước tiến vô cùng lớn. Vừa rồi đã làm được Thông tư riêng cho VTV theo hướng đó.

Bộ đã tham mưu Chính phủ ban hành chính sách để phát triển cơ quan báo chí chủ lực đa phương tiện; tăng cường công tác truyền thông chính sách; chuyển đổi số báo chí; sửa đổi quy định về quảng cáo, bản quyền báo chí; có chính sách điều hướng quảng cáo trên mạng về báo chí, v.v.

Phóng viên: Tức là theo Bộ trưởng, đã đến lúc cần một cơ chế đột phá để đầu tư cho báo chí, truyền thông, giúp nâng cao năng lực cạnh tranh của báo chí cách mạng, cả về hạ tầng công nghệ và nguồn nhân lực?

Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng: Đầu tư cho báo chí truyền thông sẽ là đầu tư hiệu quả, vì nó tạo ra sức mạnh của nhận thức, sức mạnh của tinh thần. Công nghệ số đã trở thành lực lượng sản xuất cơ bản của hầu hết lĩnh vực và đặc biệt là báo chí. Trước đây báo chí tập trung đầu tư vào con người thì nay phải tập trung đầu tư vào công cụ, công cụ trước đây là cây bút, trang giấy thì nay là công nghệ, trước đây đầu tư vào truyền dẫn, phát sóng thì nay phải đầu tư vào nền tảng số. Đầu tư công nghệ, chuyển đổi số đòi hỏi lâu dài, có thể có những mục chưa có trong quy định. Do vậy, cần có sự nghiên cứu, đầu tư, nhưng phải kịp thời, đáp ứng yêu cầu xu thế phát triển.

Phóng viên: Bộ trưởng cũng từng phát biểu: “Báo chí phải phản ánh trung thực dòng chảy chính của xã hội, không biến dòng phụ thành dòng chính. Dòng chính của chúng ta đang tốt, bởi vậy phải lan tỏa cái tốt, tạo ra đồng thuận xã hội, tạo niềm tin xã hội vào sự lãnh đạo của Đảng, điều hành của Nhà nước, niềm tin vào chế độ. Niềm tin xã hội là một sức mạnh, làm mất niềm tin xã hội là làm xói mòn sức mạnh quốc gia”. Vậy có cần một bộ công cụ kiểm đếm, định lượng thông tin tích cực trên báo chí truyền thông để các cơ quan báo chí truyền thông đẩy mạnh định hướng: “Lấy cái đẹp đè bẹp cái xấu”?

Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng: Hiện chúng ta đã phát triển công cụ thông minh để kiểm đếm thông tin tiêu cực trên báo chí. Thông tin tiêu cực trên báo chí đang ở mức 10-15%, trên không gian mạng thì lớn hơn, khoảng 18%. Trong môi trường số, dòng thông tin nào chiếm từ 30% trở lên sẽ thành dòng chính. Trên mặt báo cũng vậy, thông tin tiêu cực mà trên 30% là xấu, dưới 10% tuy không đáng kể, không ảnh hưởng tới toàn cục nhưng có sức mạnh cảnh báo. Mức 10-15% thông tin tiêu cực trên báo chí vẫn là hơi cao. Thực tế cuộc sống thì đa dạng. Có nhiều cái xấu cần phải đấu tranh, phê phán, nhưng thông tin nhiều về cái này quá thì vô hình trung bức tranh xã hội sẽ thiếu tươi sáng. Ngược lại, nếu không đấu tranh đi đến tận cùng sự việc thì cái xấu, cái tiêu cực vẫn còn đó. Do vậy, đấu tranh thì phải trên tinh thần xây dựng, nhân văn, hướng tới những điều tốt đẹp, từ đó kích hoạt thêm năng lượng tích cực trong xã hội, để hợp lực thành năng lượng phát triển quốc gia, truyền đi khát vọng về một Việt Nam hùng cường, giàu mạnh.

Phóng viên: Trân trọng cảm ơn Bộ trưởng!

Có thể bạn quan tâm

Để tạo nên đội ngũ lao động chất lượng cao, cần đổi mới căn bản công tác đào tạo nghề. (Trong ảnh: Lớp học nghề Kỹ thuật máy lạnh và điều hòa của Trường cao đẳng nghề Bắc khoa Hà Nội). Ảnh: Thành Đạt

Bước chuyển đổi về chất

Lời tòa soạn: Sau hơn 40 năm, hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài đã đạt được nhiều kết quả. Trong bối cảnh cạnh tranh ngày một gay gắt, Việt Nam có những chuyển dịch từ trong chính sách cũng như sự chủ động của doanh nghiệp vì mục tiêu hướng đến sự chuyển đổi về chất trong xuất khẩu lao động.

Hàn điện là một trong những ngành "khát" lao động tại nhiều quốc gia.

Lành mạnh và minh bạch hơn

Tình trạng doanh nghiệp không có giấy phép vẫn đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, cộng với nạn lừa đảo đã làm ảnh hưởng lớn đến người lao động. Làm lành mạnh, minh bạch hóa thị trường lao động xuất khẩu trở thành đòi hỏi ngày càng cấp thiết.

Người lao động Việt Nam vốn chăm chỉ, song cần nâng cao chất lượng tay nghề để có thể vươn đến phân khúc thu nhập cao.

Đổi mới căn bản từ đào tạo

Xu hướng chuyển đổi xanh của các nền kinh tế thế giới đòi hỏi Việt Nam phải sớm có chiến lược đào tạo bài bản nhằm chuẩn bị nguồn nhân lực chất lượng cao, có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

Một lớp học tiếng Hàn dành cho học viên chuẩn bị xuất khẩu lao động. Ảnh Văn Học

Xây dựng hệ sinh thái xuất khẩu lao động toàn diện

Thị trường lao động đang ngày càng đòi hỏi người lao động có trình độ tay nghề, kỹ năng cao. Vì thế, công tác đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài cần một sự thay đổi về chất. Đó là chuyển từ "xuất khẩu sức lao động" sang "xuất khẩu nhân lực chất lượng".

Cơ quan chức năng Việt Nam họp với đối tác Hàn Quốc nhằm thúc đẩy hợp tác song phương trong lĩnh vực lao động, việc làm.

Đồng bộ giải pháp mở rộng thị trường thu nhập cao

Ông Đặng Đức Thuận, Phó Cục trưởng Quản lý lao động ngoài nước, Bộ Nội vụ, chia sẻ với Nhân Dân cuối tuần, về những giải pháp trong quản lý nhà nước để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực xuất khẩu lao động. Đi đôi với đó là giảm khâu trung gian, chống lừa đảo, bảo vệ người lao động.

Tại Techno Park, các doanh nghiệp FDI tham gia ngay từ khâu đặt hàng và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao tại chính các nhà máy đạt tiêu chuẩn quốc tế. (Ảnh Vân Nguyễn)

Xu thế mới từ mô hình xuất khẩu tại chỗ

Thay vì phải trả những khoản chi phí không nhỏ cho môi giới xuất khẩu lao động, phải xa gia đình đi làm ăn ở nơi xứ người với rất nhiều khác biệt về văn hóa, khí hậu, thói quen sinh hoạt… nhiều người lao động Việt Nam đang lựa chọn việc làm theo một xu hướng mới.

Anh Lê Lương Nguyên (ngoài cùng bên phải) trao đổi với lao động trong xưởng.

Cú "quay xe" ngoạn mục

Nghệ An là một trong những địa phương có nhiều lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Sau nhiều năm bôn ba xứ người, không ít cá nhân quyết định về nước lập nghiệp, trở thành những tấm gương làm kinh tế giỏi.

Các hình thái thời tiết ngày càng cực đoan buộc các đô thị phải sớm thay đổi cách ứng phó, tăng khả năng chống chịu. (Ảnh THÀNH ĐẠT)

Quy hoạch đô thị và sức đề kháng với thiên tai

Liên tiếp những đợt thiên tai bất thường xảy ra trong hai tháng qua đã khiến nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước gánh chịu những hậu quả khôn lường, và làm bộc lộ nhiều bất cập, đặc biệt là hiện tượng ngập lụt tại các đô thị lớn.

Ứng phó ngập lụt đô thị không chỉ là nhiệm vụ kỹ thuật, mà còn là thước đo năng lực quản trị và tầm nhìn phát triển quốc gia. (Ảnh: Xuân Ngọc)

Chuyển đổi tư duy để chủ động thích ứng

Ngập lụt đô thị đã và đang trở thành vấn đề nổi cộm, kéo dài và khó giải quyết ở hầu hết các thành phố lớn của Việt Nam. Thời gian qua, dù hàng loạt dự án chống ngập được triển khai với vốn đầu tư lớn, nhưng tình trạng nước dâng ngập đường, nhà cửa, khiến giao thông tê liệt và đời sống người dân bị đảo lộn... vẫn tiếp diễn.

Ao Hoàng Giáp trong ngõ 99 Định Công Hạ (phường Định Công, Hà Nội) bị lấn chiếm, dựng nhà tạm và tập kết vật liệu xây dựng. (Ảnh VĂN HỌC)

Khi mặt nước vẫn đang bị thu hẹp

Tình trạng lấn chiếm, lấp ao, hồ, sông, kênh dẫn nước trái phép, không chỉ gây thất thoát tài sản công, mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng thoát nước, thấm nước của Thủ đô Hà Nội.

Công viên trữ nước Chulalongkorn Centenary ở trung tâm thủ đô Bangkok (Thái Lan) có khả năng lưu trữ hơn 1 triệu lít nước nhờ hệ thống hồ chứa liên hoàn. (Nguồn QUYHOACHDOTHI.VN)

Gợi mở từ thế giới

Trải qua hàng thập kỷ gồng mình chống chịu các hiện tượng thời tiết cực đoan, nhiều mô hình đô thị tích hợp khả năng chống chịu biến đổi khi hậu được triển khai ở các quốc gia như: Hà Lan, Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc hay Đức là minh chứng tiêu biểu cho tư duy "sống chung với nước" bằng khoa học, quy hoạch và quản trị hiện đại.

Trao quà cứu trợ đến với người dân vùng lũ tỉnh Đắk Lắk. (Ảnh TTXVN)

Cần chính sách đặc biệt

Hơn một tuần qua, sau đợt mưa lũ lịch sử, các tỉnh Lâm Đồng, Khánh Hòa, Đắk Lắk, Gia Lai vẫn oằn mình nỗ lực vượt qua những tổn thất nặng nề do thiên tai.

Công nhân EVNHANOI sử dụng máy đo nhiệt kiểm tra tình trạng thiết bị điện tại trạm biến áp vận hành không người trực. Ảnh: Thành Đạt

Từ ứng dụng tới làm chủ công nghệ chiến lược

Xuất phát từ chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, và trên tinh thần cụ thể hóa Nghị quyết số 57-NQ/TW; Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, Việt Nam xác định tập trung nguồn lực phát triển các công nghệ chiến lược.

Quang cảnh Hội nghị Cấp cao ASEAN+3 lần thứ 28. (Ảnh VGP/Nhật Bắc)

Cải thiện môi trường kinh doanh nhờ hiện đại hóa quản lý

Một số ngành nghề như kinh doanh "tạm nhập, tái xuất" thực phẩm đông lạnh, xuất khẩu gạo hay dịch vụ kế toán… vốn được xác định là ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Doanh nghiệp hoạt động trong các ngành nghề này thường khá chật vật, chạy đôn chạy đáo để lo hoàn thiện hồ sơ xin giấy phép kinh doanh.

Phó Tổng Giám đốc Qualcomm Gerardo Giaretta nhận định, kỹ sư Việt Nam có trình độ đẳng cấp thế giới.

Cú huých đủ mạnh

Một doanh nghiệp Việt Nam lọt vào báo cáo của Gartner, hệ quy chiếu khắt khe bậc nhất thế giới, có thể chỉ là một lát cắt nhỏ của ngành công nghệ. Nhưng đằng sau đó là tương lai đầy hứa hẹn: Người Việt đủ khả năng bước vào sân chơi công nghệ lõi, song cần có một cú huých đủ mạnh.

Công nhân EVNHANOI kiểm tra vận hành Hệ thống thiết bị đóng cắt hợp bộ. Ảnh: Thành Đạt

Hợp tác ba bên trong phát huy giá trị cốt lõi

Từ một hệ thống chủ yếu vận hành bằng thiết bị nhập khẩu, ngành điện Việt Nam đang bước vào giai đoạn vươn mình, nỗ lực làm chủ các công nghệ lõi, để không bị tụt lại trong xu thế chuyển dịch năng lượng toàn cầu.

Kiểm tra thông số thiết bị điện tại trạm biến áp. (Ảnh Thành Đạt)

Nền tảng quản lý, vận hành tối ưu lưới điện

Với yêu cầu ngày càng cao về chất lượng và độ tin cậy cung cấp điện, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) không ngừng cải thiện nền tảng hạ tầng, ứng dụng các giải pháp công nghệ hiện đại. Trong đó, việc làm chủ nhiều bộ khung công nghệ cốt lõi giúp quá trình quản lý và vận hành lưới điện ngày càng hiệu quả.

Tòa nhà PECC2 Innovation Hub tại Thành phố Hồ Chí Minh đã vận hành BESS công suất 750 kW.

BESS - Gỡ nút thắt cho năng lượng tái tạo

Những năm gần đây, Việt Nam đã vươn lên nhóm quốc gia tăng trưởng năng lượng tái tạo nhanh nhất khu vực. Tuy nhiên, tình trạng nguồn điện sạch vẫn bị bỏ phí cần được ngành điện nhận diện và tìm lời giải.

Trung tâm Điều khiển số tại Trung tâm Điều độ Hệ thống điện Thành phố Hà Nội được xây dựng trên nền tảng hệ thống SCADA. (Ảnh Thành Đạt)

Đo độ phát triển công nghệ, đếm lợi thế cạnh tranh

Công nghệ lõi là những công nghệ nền tảng, có khả năng chi phối chuỗi sản xuất công nghiệp, tạo ra hệ sinh thái sản phẩm, dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Làm chủ công nghệ lõi đồng nghĩa với việc nắm quyền thiết kế, tích hợp và sản xuất hệ thống, từ đó giảm phụ thuộc bên ngoài và nâng cao năng lực tự chủ công nghệ.

Đoàn đánh giá ngoài thuộc Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long tiến hành kiểm định chất lượng một số chương trình đào tạo của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội).

Triết lý giáo dục trong thời đại thời AI

Triết lý giáo dục là nền tảng định hướng cho bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục. Nó không chỉ là khẩu hiệu hay niềm tin chung, mà là hệ quy chiếu giá trị chi phối mọi hoạt động quản lý, giảng dạy và học tập.

Đoàn chuyên gia của Hiệp hội Kiểm định các Trường đại học Nhật Bản kiểm định chất lượng tại Trường đại học Việt Nhật. (Ảnh VJU)

Phép thử với năng lực tự đổi mới

Nếu như kiểm định chất lượng bên ngoài là "tấm gương phản chiếu" khách quan, thì bảo đảm chất lượng bên trong chính là "nội lực" duy trì và phát triển bền vững của chính mỗi trường đại học.

GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Chuyển hóa từ công cụ thành động lực

Đánh giá hiện trạng công tác bảo đảm chất lượng giáo dục đại học và nêu định hướng một số giải pháp là nội dung cuộc phỏng vấn của phóng viên Nhân Dân cuối tuần với GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

PGS, TS Lê Văn Hảo.

Lan tỏa văn hóa chất lượng

Theo PGS, TS Lê Văn Hảo, Ủy viên Hội đồng Kiểm định chất lượng giáo dục của Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long và Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Sài Gòn, các cơ sở giáo dục đại học cần có chiến lược và giải pháp cụ thể để hình thành và phát triển bền vững văn hóa chất lượng của nhà trường.

Sinh viên học tập tại Thư viện Trường đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh. (Nguồn: Website nhà trường)

Tâm tư "người trong cuộc"

Những năm qua, công tác kiểm định chất lượng giáo dục đại học đã được triển khai đồng bộ, có chiều sâu và đạt kết quả tích cực. Tuy nhiên, công tác tự đánh giá và bảo đảm chất lượng giáo dục đại học vẫn còn nhiều khó khăn.

Thiết kế: Khiếu Minh; ảnh: Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam và Thành Đạt

Tinh thần khai phóng và khát vọng sáng tạo

Tháng 11/1925, khóa khai giảng đầu tiên của ngôi trường Mỹ thuật Đông Dương, tiền thân của Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, đã đặt dấu mốc đặc biệt mang tính bước ngoặt cho một cuộc cách mạng thẩm mỹ lớn trong xã hội Việt Nam đương thời.