Hướng đến mục tiêu bán tín chỉ carbon

Năm 2024, tỉnh Kiên Giang đặt mục tiêu sản xuất lúa hơn 4,4 triệu tấn. Riêng ở vụ hè thu này tỉnh thực hiện Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao trên diện tích 60 nghìn ha, với nhiều tín hiệu tích cực.
Nông dân ở huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang học cách đo khí thải carbon.
Nông dân ở huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang học cách đo khí thải carbon.

Những gặt hái mang tới nhiều kỳ vọng

Năm 2023 vừa qua, toàn tỉnh Kiên Giang gieo trồng 712.856 ha lúa; sản lượng 4,55 triệu tấn, vượt 3,54% so kế hoạch; năng suất trung bình 6,39 tấn/ha. Theo Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Kiên Giang Lê Hữu Toàn, kết quả trên là nhờ ngay từ đầu năm 2023, ngành nông nghiệp tỉnh xây dựng và triển khai kế hoạch sản xuất kịp thời, có phương án cụ thể cho từng vùng. Các cơ quan chuyên môn và địa phương thường xuyên cập nhật tình hình sản xuất, đồng thời hướng dẫn nông dân quy trình canh tác lúa, ứng phó với diễn biến bất thường của thời tiết, sử dụng cơ cấu các giống lúa phù hợp. Nông dân duy trì sử dụng giống lúa chất lượng cao và ứng dụng các tiến bộ khoa học, kỹ thuật.

Năm 2024, tỉnh đặt mục tiêu sản xuất hơn 4,4 triệu tấn lúa (gần bằng năm 2023); tỷ lệ sản xuất lúa chất lượng cao duy trì hơn 90% tổng diện tích gieo trồng. Theo kế hoạch thực hiện Đề án, tỉnh Kiên Giang sẽ tham gia diện tích 60 nghìn ha. Dự kiến tỉnh bán tín chỉ carbon khoảng 30 nghìn ha. Kế hoạch của Ủy ban nhân dân tỉnh Kiên Giang đề ra đến năm 2025, diện tích canh tác vùng chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp đạt 100 nghìn ha, dự kiến bán tín chỉ carbon khoảng 40 nghìn ha. Đến năm 2030 hình thành 200 nghìn ha vùng chuyên canh gắn với tổ chức lại hệ thống sản xuất theo chuỗi giá trị, nâng cao thu nhập và đời sống của người trồng lúa, bảo đảm hiệu quả sản xuất kinh doanh, bảo vệ môi trường, thích ứng biến đổi khí hậu và giảm phát thải khí nhà kính.

"Tỉnh Kiên Giang đặt nhiều kỳ vọng từ Đề án, góp phần mang lại sự thay đổi cho ngành sản xuất lúa gạo. Cũng là dịp để tổ chức lại ngành hàng lúa gạo theo hướng bền vững trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng gia tăng", Giám đốc Lê Hữu Toàn cho biết.

Tín hiệu tích cực từ vùng trồng tiên phong

Thực hiện Đề án, tỉnh Kiên Giang đã chọn Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp thanh niên Phú Hòa, huyện Tân Hiệp và Hợp tác xã cua-lúa Thạnh An, huyện An Minh để thí điểm rút kinh nghiệm và nhân rộng toàn tỉnh. Hiện nay, nông dân trồng lúa của các hợp tác xã này và một số nông dân khác đã được tập huấn quy trình canh tác lúa thông minh, phù hợp với yêu cầu của Đề án.

Vụ hè thu năm 2024, Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp thanh niên Phú Hòa triển khai thực hiện quy trình sản xuất lúa chất lượng cao, phát thải thấp với diện tích 50 ha. Hiện nay, các trà lúa đang trong giai đoạn khoảng 60 ngày tuổi, sinh trưởng tốt. Anh Nguyễn Văn Huỳnh, Giám đốc Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp thanh niên Phú Hòa, cho biết: "Nhìn trên điện thoại, tôi có thể biết lượng nước trên đồng ruộng để chủ động lấy, hoặc rút bớt nước. Trước đó, chúng tôi đã lắp đặt các ống cảm biến trên ruộng lúa và cài đặt lên điện thoại. Do đã được tập huấn nhiều lần trước đó, nên bà con trong hợp tác xã đã nắm bắt quy trình canh tác này". Ngoài ra, theo anh Huỳnh, để giảm lượng phát thải khí nhà kính, nông dân của hợp tác xã tuân thủ yêu cầu giảm lượng giống lúa gieo sạ xuống 70kg/ha, sử dụng giống xác nhận, giảm 20% lượng phân hóa học và thuốc bảo vệ thực vật, giảm 20% lượng nước trong đồng ruộng so với canh tác theo phương thức truyền thống…

Trên cánh đồng lúa hè thu 2024 tại xã Tân Hội, huyện Tân Hiệp, Trung tâm Khuyến nông tỉnh Kiên Giang đã bố trí thí điểm 10 trạm đo giảm phát thải giúp cho bà con đo đạc, kiểm đếm lượng khí thải phát ra từ vụ canh tác của mình. Anh Hồ Trung Kiên (xã Tân Hội) cho biết, qua hai lớp tập huấn, khoảng 30 ngày, đã thành thạo kỹ thuật đo lượng phát thải. "Quy trình đo phải đúng kỹ thuật và đúng thời điểm. Thời điểm là một tuần lấy mẫu khí một lần và phải lấy mẫu vào buổi sáng. Có ba mẫu thu cách nhau một giờ đồng hồ. Khi mình lấy thì mở khóa lấy không khí. Sau khi lấy mẫu khí xong, bà con nông dân sẽ gửi mẫu khí về Trung tâm Khuyến nông tỉnh Kiên Giang để ngành chuyên môn đo đạc lượng khí phát thải ra từ cánh đồng của nông dân", anh Kiên cho biết.

Vừa qua, trên cánh đồng của anh Hồ Trung Kiên, ngành chuyên môn tổng kết lượng phát thải giảm 40 tấn CO2/ha. Dự kiến tham gia đề án này, năng suất vụ lúa hè thu sẽ tăng từ 20-30%. Vụ trước năng suất đạt 1 tấn/công thì nay dự kiến khoảng 1,2 tấn-1,3 tấn/công. Giá bán và lợi nhuận sẽ tăng lên khoảng 10%. Mọi khâu từ chọn giống, gieo sạ, chăm sóc cho đến khi thu hoạch sẽ làm giảm lượng khí thải carbon nếu làm đúng quy trình, bảo vệ môi trường, hướng đến cánh đồng lúa chất lượng cao, phát thải thấp và bền vững.

Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến nông tỉnh Kiên Giang Lê Văn Dũng, cho hay, tùy theo đồng ruộng và tùy theo diện tích nông hộ, bà con đặt ống cảm biến. Đây là điều kiện bắt buộc trong quy trình canh tác lúa giảm phát thải gắn với tăng trưởng xanh mà Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đề ra. Mỗi nông dân sử dụng ống để quản lý mực nước trên ruộng mình để lúc nào cần tưới là tưới nước, khi nào xiết nước là xiết nước nhằm tuân thủ quy trình giảm phát thải. "Từ khâu chọn giống đến thu hoạch, quy trình thực hiện nghiêm ngặt. Ở trên cánh đồng lúa chất lượng cao phát thải thấp không chỉ ứng dụng công nghệ ướt, khô xen kẽ mà còn có các thiết bị đo phát thải và thiết bị giám sát côn trùng rất hiệu quả cho bà con nông dân", ông Dũng cho biết thêm.

Những cánh đồng lúa ở huyện Tân Hiệp hiện đang là vùng trồng tiên phong khởi động thí điểm cho Đề án. Ngoài chọn giống lúa chất lượng cao, chăm sóc kỹ, bà con nông dân còn được học cách đo khí thải carbon. Đây là công việc khó, bởi đòi hỏi kỹ thuật và độ chính xác cao, nhưng nhiều nông dân đang dần làm quen và thuần thục công việc này.

Có thể bạn quan tâm

Để tạo nên đội ngũ lao động chất lượng cao, cần đổi mới căn bản công tác đào tạo nghề. (Trong ảnh: Lớp học nghề Kỹ thuật máy lạnh và điều hòa của Trường cao đẳng nghề Bắc khoa Hà Nội). Ảnh: Thành Đạt

Bước chuyển đổi về chất

Lời tòa soạn: Sau hơn 40 năm, hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài đã đạt được nhiều kết quả. Trong bối cảnh cạnh tranh ngày một gay gắt, Việt Nam có những chuyển dịch từ trong chính sách cũng như sự chủ động của doanh nghiệp vì mục tiêu hướng đến sự chuyển đổi về chất trong xuất khẩu lao động.

Hàn điện là một trong những ngành "khát" lao động tại nhiều quốc gia.

Lành mạnh và minh bạch hơn

Tình trạng doanh nghiệp không có giấy phép vẫn đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, cộng với nạn lừa đảo đã làm ảnh hưởng lớn đến người lao động. Làm lành mạnh, minh bạch hóa thị trường lao động xuất khẩu trở thành đòi hỏi ngày càng cấp thiết.

Người lao động Việt Nam vốn chăm chỉ, song cần nâng cao chất lượng tay nghề để có thể vươn đến phân khúc thu nhập cao.

Đổi mới căn bản từ đào tạo

Xu hướng chuyển đổi xanh của các nền kinh tế thế giới đòi hỏi Việt Nam phải sớm có chiến lược đào tạo bài bản nhằm chuẩn bị nguồn nhân lực chất lượng cao, có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

Một lớp học tiếng Hàn dành cho học viên chuẩn bị xuất khẩu lao động. Ảnh Văn Học

Xây dựng hệ sinh thái xuất khẩu lao động toàn diện

Thị trường lao động đang ngày càng đòi hỏi người lao động có trình độ tay nghề, kỹ năng cao. Vì thế, công tác đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài cần một sự thay đổi về chất. Đó là chuyển từ "xuất khẩu sức lao động" sang "xuất khẩu nhân lực chất lượng".

Cơ quan chức năng Việt Nam họp với đối tác Hàn Quốc nhằm thúc đẩy hợp tác song phương trong lĩnh vực lao động, việc làm.

Đồng bộ giải pháp mở rộng thị trường thu nhập cao

Ông Đặng Đức Thuận, Phó Cục trưởng Quản lý lao động ngoài nước, Bộ Nội vụ, chia sẻ với Nhân Dân cuối tuần, về những giải pháp trong quản lý nhà nước để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực xuất khẩu lao động. Đi đôi với đó là giảm khâu trung gian, chống lừa đảo, bảo vệ người lao động.

Tại Techno Park, các doanh nghiệp FDI tham gia ngay từ khâu đặt hàng và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao tại chính các nhà máy đạt tiêu chuẩn quốc tế. (Ảnh Vân Nguyễn)

Xu thế mới từ mô hình xuất khẩu tại chỗ

Thay vì phải trả những khoản chi phí không nhỏ cho môi giới xuất khẩu lao động, phải xa gia đình đi làm ăn ở nơi xứ người với rất nhiều khác biệt về văn hóa, khí hậu, thói quen sinh hoạt… nhiều người lao động Việt Nam đang lựa chọn việc làm theo một xu hướng mới.

Anh Lê Lương Nguyên (ngoài cùng bên phải) trao đổi với lao động trong xưởng.

Cú "quay xe" ngoạn mục

Nghệ An là một trong những địa phương có nhiều lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Sau nhiều năm bôn ba xứ người, không ít cá nhân quyết định về nước lập nghiệp, trở thành những tấm gương làm kinh tế giỏi.

Các hình thái thời tiết ngày càng cực đoan buộc các đô thị phải sớm thay đổi cách ứng phó, tăng khả năng chống chịu. (Ảnh THÀNH ĐẠT)

Quy hoạch đô thị và sức đề kháng với thiên tai

Liên tiếp những đợt thiên tai bất thường xảy ra trong hai tháng qua đã khiến nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước gánh chịu những hậu quả khôn lường, và làm bộc lộ nhiều bất cập, đặc biệt là hiện tượng ngập lụt tại các đô thị lớn.

Ứng phó ngập lụt đô thị không chỉ là nhiệm vụ kỹ thuật, mà còn là thước đo năng lực quản trị và tầm nhìn phát triển quốc gia. (Ảnh: Xuân Ngọc)

Chuyển đổi tư duy để chủ động thích ứng

Ngập lụt đô thị đã và đang trở thành vấn đề nổi cộm, kéo dài và khó giải quyết ở hầu hết các thành phố lớn của Việt Nam. Thời gian qua, dù hàng loạt dự án chống ngập được triển khai với vốn đầu tư lớn, nhưng tình trạng nước dâng ngập đường, nhà cửa, khiến giao thông tê liệt và đời sống người dân bị đảo lộn... vẫn tiếp diễn.

Ao Hoàng Giáp trong ngõ 99 Định Công Hạ (phường Định Công, Hà Nội) bị lấn chiếm, dựng nhà tạm và tập kết vật liệu xây dựng. (Ảnh VĂN HỌC)

Khi mặt nước vẫn đang bị thu hẹp

Tình trạng lấn chiếm, lấp ao, hồ, sông, kênh dẫn nước trái phép, không chỉ gây thất thoát tài sản công, mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng thoát nước, thấm nước của Thủ đô Hà Nội.

Công viên trữ nước Chulalongkorn Centenary ở trung tâm thủ đô Bangkok (Thái Lan) có khả năng lưu trữ hơn 1 triệu lít nước nhờ hệ thống hồ chứa liên hoàn. (Nguồn QUYHOACHDOTHI.VN)

Gợi mở từ thế giới

Trải qua hàng thập kỷ gồng mình chống chịu các hiện tượng thời tiết cực đoan, nhiều mô hình đô thị tích hợp khả năng chống chịu biến đổi khi hậu được triển khai ở các quốc gia như: Hà Lan, Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc hay Đức là minh chứng tiêu biểu cho tư duy "sống chung với nước" bằng khoa học, quy hoạch và quản trị hiện đại.

Trao quà cứu trợ đến với người dân vùng lũ tỉnh Đắk Lắk. (Ảnh TTXVN)

Cần chính sách đặc biệt

Hơn một tuần qua, sau đợt mưa lũ lịch sử, các tỉnh Lâm Đồng, Khánh Hòa, Đắk Lắk, Gia Lai vẫn oằn mình nỗ lực vượt qua những tổn thất nặng nề do thiên tai.

Công nhân EVNHANOI sử dụng máy đo nhiệt kiểm tra tình trạng thiết bị điện tại trạm biến áp vận hành không người trực. Ảnh: Thành Đạt

Từ ứng dụng tới làm chủ công nghệ chiến lược

Xuất phát từ chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, và trên tinh thần cụ thể hóa Nghị quyết số 57-NQ/TW; Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, Việt Nam xác định tập trung nguồn lực phát triển các công nghệ chiến lược.

Quang cảnh Hội nghị Cấp cao ASEAN+3 lần thứ 28. (Ảnh VGP/Nhật Bắc)

Cải thiện môi trường kinh doanh nhờ hiện đại hóa quản lý

Một số ngành nghề như kinh doanh "tạm nhập, tái xuất" thực phẩm đông lạnh, xuất khẩu gạo hay dịch vụ kế toán… vốn được xác định là ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Doanh nghiệp hoạt động trong các ngành nghề này thường khá chật vật, chạy đôn chạy đáo để lo hoàn thiện hồ sơ xin giấy phép kinh doanh.

Phó Tổng Giám đốc Qualcomm Gerardo Giaretta nhận định, kỹ sư Việt Nam có trình độ đẳng cấp thế giới.

Cú huých đủ mạnh

Một doanh nghiệp Việt Nam lọt vào báo cáo của Gartner, hệ quy chiếu khắt khe bậc nhất thế giới, có thể chỉ là một lát cắt nhỏ của ngành công nghệ. Nhưng đằng sau đó là tương lai đầy hứa hẹn: Người Việt đủ khả năng bước vào sân chơi công nghệ lõi, song cần có một cú huých đủ mạnh.

Công nhân EVNHANOI kiểm tra vận hành Hệ thống thiết bị đóng cắt hợp bộ. Ảnh: Thành Đạt

Hợp tác ba bên trong phát huy giá trị cốt lõi

Từ một hệ thống chủ yếu vận hành bằng thiết bị nhập khẩu, ngành điện Việt Nam đang bước vào giai đoạn vươn mình, nỗ lực làm chủ các công nghệ lõi, để không bị tụt lại trong xu thế chuyển dịch năng lượng toàn cầu.

Kiểm tra thông số thiết bị điện tại trạm biến áp. (Ảnh Thành Đạt)

Nền tảng quản lý, vận hành tối ưu lưới điện

Với yêu cầu ngày càng cao về chất lượng và độ tin cậy cung cấp điện, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) không ngừng cải thiện nền tảng hạ tầng, ứng dụng các giải pháp công nghệ hiện đại. Trong đó, việc làm chủ nhiều bộ khung công nghệ cốt lõi giúp quá trình quản lý và vận hành lưới điện ngày càng hiệu quả.

Tòa nhà PECC2 Innovation Hub tại Thành phố Hồ Chí Minh đã vận hành BESS công suất 750 kW.

BESS - Gỡ nút thắt cho năng lượng tái tạo

Những năm gần đây, Việt Nam đã vươn lên nhóm quốc gia tăng trưởng năng lượng tái tạo nhanh nhất khu vực. Tuy nhiên, tình trạng nguồn điện sạch vẫn bị bỏ phí cần được ngành điện nhận diện và tìm lời giải.

Trung tâm Điều khiển số tại Trung tâm Điều độ Hệ thống điện Thành phố Hà Nội được xây dựng trên nền tảng hệ thống SCADA. (Ảnh Thành Đạt)

Đo độ phát triển công nghệ, đếm lợi thế cạnh tranh

Công nghệ lõi là những công nghệ nền tảng, có khả năng chi phối chuỗi sản xuất công nghiệp, tạo ra hệ sinh thái sản phẩm, dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Làm chủ công nghệ lõi đồng nghĩa với việc nắm quyền thiết kế, tích hợp và sản xuất hệ thống, từ đó giảm phụ thuộc bên ngoài và nâng cao năng lực tự chủ công nghệ.

Đoàn đánh giá ngoài thuộc Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long tiến hành kiểm định chất lượng một số chương trình đào tạo của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội).

Triết lý giáo dục trong thời đại thời AI

Triết lý giáo dục là nền tảng định hướng cho bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục. Nó không chỉ là khẩu hiệu hay niềm tin chung, mà là hệ quy chiếu giá trị chi phối mọi hoạt động quản lý, giảng dạy và học tập.

Đoàn chuyên gia của Hiệp hội Kiểm định các Trường đại học Nhật Bản kiểm định chất lượng tại Trường đại học Việt Nhật. (Ảnh VJU)

Phép thử với năng lực tự đổi mới

Nếu như kiểm định chất lượng bên ngoài là "tấm gương phản chiếu" khách quan, thì bảo đảm chất lượng bên trong chính là "nội lực" duy trì và phát triển bền vững của chính mỗi trường đại học.

GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Chuyển hóa từ công cụ thành động lực

Đánh giá hiện trạng công tác bảo đảm chất lượng giáo dục đại học và nêu định hướng một số giải pháp là nội dung cuộc phỏng vấn của phóng viên Nhân Dân cuối tuần với GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

PGS, TS Lê Văn Hảo.

Lan tỏa văn hóa chất lượng

Theo PGS, TS Lê Văn Hảo, Ủy viên Hội đồng Kiểm định chất lượng giáo dục của Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long và Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Sài Gòn, các cơ sở giáo dục đại học cần có chiến lược và giải pháp cụ thể để hình thành và phát triển bền vững văn hóa chất lượng của nhà trường.

Sinh viên học tập tại Thư viện Trường đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh. (Nguồn: Website nhà trường)

Tâm tư "người trong cuộc"

Những năm qua, công tác kiểm định chất lượng giáo dục đại học đã được triển khai đồng bộ, có chiều sâu và đạt kết quả tích cực. Tuy nhiên, công tác tự đánh giá và bảo đảm chất lượng giáo dục đại học vẫn còn nhiều khó khăn.

Thiết kế: Khiếu Minh; ảnh: Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam và Thành Đạt

Tinh thần khai phóng và khát vọng sáng tạo

Tháng 11/1925, khóa khai giảng đầu tiên của ngôi trường Mỹ thuật Đông Dương, tiền thân của Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, đã đặt dấu mốc đặc biệt mang tính bước ngoặt cho một cuộc cách mạng thẩm mỹ lớn trong xã hội Việt Nam đương thời.