Tuy nhiên, con số HTX có khả năng tham gia xuất khẩu ổn định vẫn còn hạn chế, chưa tương xứng với tiềm năng của khu vực kinh tế tập thể. Điểm nghẽn lớn nhất được chỉ ra là tình trạng sản xuất manh mún, thiếu liên kết và chưa đáp ứng được tiêu chuẩn quốc tế.
Khi “mạnh ai nấy làm” trở thành lực cản lớn nhất
Tại Cà Mau, nơi có hệ sinh thái sản xuất thủy sản quy mô lớn, thực trạng này thể hiện rõ. Ông Đỗ Thành Nghĩ, Chủ tịch Hội đồng quản trị HTX Hưng Hiệp Tiến cho biết, toàn tỉnh có đến 30 HTX cùng sản xuất chả cá, nhưng mỗi nơi làm một kiểu, không theo chung tiêu chuẩn hay công nghệ. “Số lượng đông không đồng nghĩa với sức mạnh. Nếu không liên kết, không chuẩn hóa quy trình, thương hiệu và công nghệ, thì HTX rất khó cạnh tranh, đặc biệt với các thị trường khó tính như châu Âu”, ông Nghĩ nhận định.
Để hướng đến thị trường xuất khẩu giá trị cao, đặc biệt là EU - nơi đòi hỏi khắt khe về chất lượng, an toàn thực phẩm và truy xuất nguồn gốc, các HTX buộc phải tạo ra lợi thế quy mô thông qua liên kết ngành hàng. Tuy nhiên, phần lớn HTX không đủ nguồn lực để tự triển khai những yêu cầu này. Theo ông Nghĩ, chính quyền địa phương cần đóng vai trò dẫn dắt trong việc quy hoạch vùng nguyên liệu tập trung, xây dựng cơ chế kiểm soát chất lượng thống nhất và hỗ trợ về vốn, chuyển giao công nghệ, đào tạo kỹ thuật.
Ông Nguyễn Hoàng Ân, Chủ tịch HTX Cái Bát (xã Phú Mỹ, tỉnh Cà Mau) cũng cho rằng, việc ứng dụng công nghệ chỉ là điều kiện cần, còn điều kiện đủ là quy hoạch lại vùng sản xuất theo đúng tiêu chuẩn quốc tế. “HTX rất muốn đầu tư máy móc, thiết bị, ứng dụng nhật ký điện tử hay truy xuất nguồn gốc, nhưng nếu vùng nuôi không đạt chuẩn ngay từ đầu, mọi nỗ lực cũng khó mang lại hiệu quả. Chúng tôi cần chính quyền vào cuộc mạnh mẽ hơn để tạo nền móng sản xuất vững chắc”, ông Ân nhấn mạnh.
Lãnh đạo địa phương cũng thừa nhận những vướng mắc này. Ông Huỳnh Chí Nguyện, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Cà Mau cho biết, các HTX nông nghiệp và thủy sản của tỉnh đã đóng góp tích cực vào chuỗi giá trị các sản phẩm chủ lực như tôm, cua, gạo. Thế nhưng, thách thức trong việc tiếp cận khoa học - công nghệ, thúc đẩy chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo và tìm kiếm thị trường xuất khẩu ổn định vẫn là rào cản lớn khiến nhiều HTX chưa thể vươn ra thị trường quốc tế.
Thống kê của Liên minh HTX Việt Nam cho thấy chỉ khoảng 26% số HTX có hệ thống truy xuất nguồn gốc đạt chuẩn; hơn một nửa chưa có thương hiệu hoặc chưa đăng ký bảo hộ; nhiều HTX vẫn vận hành thủ công, ghi chép sản xuất bằng giấy, chưa đáp ứng được yêu cầu minh bạch dữ liệu - yếu tố bắt buộc khi tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu.
Chuyển đổi xanh và chuyển đổi số - “đôi cánh” nâng năng lực xuất khẩu
Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam nhận định: Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA) đang mở ra cơ hội vàng cho hàng hóa Việt Nam, trong đó khu vực HTX giữ vai trò quan trọng vì trực tiếp gắn với chuỗi sản xuất nông nghiệp và sinh kế của hàng triệu hộ dân. Muốn tận dụng cơ hội này, HTX phải thay đổi toàn diện từ tư duy kinh doanh, mô hình quản trị đến tiêu chuẩn sản xuất.
Ông Nguyễn Hoàng Ân (HTX Cái Bát) cho rằng, chuyển đổi số không còn là xu hướng mà là yêu cầu bắt buộc. “Chúng tôi hiểu phải ứng dụng công nghệ, phải xanh hóa sản xuất, nhưng HTX chỉ có thể làm tốt nếu có sự phối hợp giữa Nhà nước - doanh nghiệp - chuyên gia để bảo đảm tính đồng bộ”, ông nói.
Ở góc độ quốc tế, ông Hoàng Văn Tú, đại diện Tổ chức Hệ thống lương thực bền vững Ireland, đánh giá xu hướng “chuyển đổi kép” - chuyển đổi xanh gắn với chuyển đổi số chính là động lực sống còn giúp HTX Việt Nam nâng cao năng lực cạnh tranh. Những yêu cầu về minh bạch hóa dữ liệu, giám sát sản xuất theo thời gian thực tế, kiểm soát chất lượng, quản lý môi trường, truy xuất nguồn gốc… đang trở thành tiêu chuẩn bắt buộc trong chuỗi giá trị toàn cầu.
Theo ông Hoàng Văn Tú, các công nghệ như nhật ký điện tử, mã QR truy xuất nguồn gốc, hệ thống giám sát môi trường vùng nuôi, phần mềm quản trị sản xuất hay các nền tảng dữ liệu dùng chung sẽ giúp HTX bảo đảm tính minh bạch - điều mà thị trường quốc tế đặt lên hàng đầu.
Ông Michael Murphy, chuyên gia người Ireland, nhận định thị trường EU “khó nhưng không đóng”. Những bộ tiêu chuẩn như GlobalGAP, HACCP, BRC, IFS hay EU Organic không phải rào cản mà là “giấy thông hành” giúp sản phẩm của các HTX tạo dựng uy tín với nhà nhập khẩu. “Nếu tuân thủ tiêu chuẩn, nhà sản xuất Việt Nam hoàn toàn có thể gõ cửa thành công thị trường EU”, ông Murphy nhấn mạnh.
Liên kết chuỗi là con đường bền vững nhất để vào thị trường quốc tế
Thực tế thời gian qua cho thấy, những HTX thành công nhất đều đi theo mô hình liên kết chuỗi giá trị. Nhiều địa phương đã hình thành các vùng nguyên liệu tập trung, kết nối HTX với doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu. Chỉ trong nửa đầu năm 2025, cả nước đã ghi nhận 353 HTX tham gia vùng nguyên liệu tập trung, 87 chuỗi liên kết ngành hàng được hình thành, giúp chi phí nguyên liệu giảm 15-20%, đồng thời nâng chất lượng sản phẩm.
Một số HTX đạt chuẩn đã xuất khẩu trực tiếp sang thị trường khó tính. Chẳng hạn, nhóm HTX OCOP tại Đồng bằng sông Cửu Long đã đưa trái cây hữu cơ vào EU, doanh thu đạt gần 100 tỷ đồng/năm. Những mô hình này cho thấy, khi sản xuất được chuẩn hóa, dữ liệu minh bạch và có doanh nghiệp dẫn dắt, sản phẩm HTX có thể cạnh tranh sòng phẳng trên thị trường quốc tế.
Tuy vậy, để mô hình liên kết chuỗi lan rộng, Liên minh HTX Việt Nam nhận định, HTX rất cần sự hỗ trợ về quy hoạch vùng nguyên liệu đồng bộ; chuyển giao công nghệ; tín dụng xanh; xây dựng thương hiệu; xúc tiến thương mại; đào tạo nhân lực và phát triển hệ thống dữ liệu số dùng chung. Đây là những hạng mục lớn mà HTX khó tự làm nếu không có sự đồng hành của Nhà nước và doanh nghiệp.