Sửa Luật Dầu khí để tối ưu nguồn lực tài nguyên quốc gia:

Để hợp đồng dầu khí tăng tính khả thi và phù hợp với thực tiễn

Trong sửa đổi Luật Dầu khí, hợp đồng dầu khí là một nội dung quan trọng nhận được sự quan tâm rất lớn của cơ quan quản lý, nhà làm luật, các chuyên gia, doanh nghiệp. Bởi đây là văn bản pháp lý quan trọng gắn liền với quá trình triển khai các hoạt động dầu khí. Đến nay, Dự thảo Luật đã tiếp thu, sửa đổi nhiều vấn đề trong hợp đồng dầu khí, nhận được sự đồng thuận cao. Tuy nhiên, vẫn còn một số nội dung cần tiếp tục xem xét, chỉnh lý để Dự thảo Luật tăng tính khả thi, đi vào cuộc sống và không tạo ra những rào cản mới.
Ảnh minh họa.
Ảnh minh họa.

Cần có hợp đồng dầu khí bằng tiếng Anh

Từ khi Dự thảo Luật Dầu khí (sửa đổi) được đưa ra lấy ý kiến góp ý, chỉnh sửa, đã có rất nhiều ý kiến chuyên gia, doanh nghiệp xoay quanh ngôn ngữ trong hợp đồng dầu khí. Tuy nhiên, đến nay Dự thảo Luật đang được lấy ý kiến các đoàn đại biểu Quốc hội, vẫn chưa thấy có tiếp thu, sửa đổi. Cụ thể, theo Khoản 1, Điều 34 Dự thảo Luật hiện vẫn đang quy định ngôn ngữ sử dụng trong hợp đồng dầu khí là tiếng Việt trong trường hợp tại thời điểm ký hợp đồng dầu khí mà nhà thầu được lựa chọn là nhà thầu Việt Nam.

Điều này được giải thích rằng, chúng ta sẵn sàng sử dụng hai ngôn ngữ trong trường hợp hợp đồng được ký kết với nhà thầu nước ngoài ở Khoản 2 điều này. Tuy nhiên, các chuyên gia, doanh nghiệp cho rằng, quy định ngôn ngữ trong hợp đồng dầu khí vẫn chưa phù hợp.

Ông Nguyễn Minh, Trưởng ban pháp lý và thương mại Eni Việt Nam cho rằng, nhà đầu tư nước ngoài muốn có hai ngôn ngữ khi ký kết hợp đồng dầu khí. Bởi nếu hợp đồng dầu khí giữa hai công ty Việt Nam ký kết với nhau là ngôn ngữ tiếng Việt nhưng đến khi công ty nước ngoài muốn tham gia vào thì lúc đó phải chỉnh sửa lại rất khó khăn.

Còn nếu công ty nước ngoài muốn tham gia vào hợp đồng dầu khí mà hợp đồng chỉ có ngôn ngữ tiếng Việt, hoặc được dịch sang tiếng Anh mà không được các bên ký thì họ rất lo ngại.

Hợp đồng dầu khí được ký kết ngay từ ban đầu bằng tiếng Anh là rất cần thiết, điều này cũng đã trở thành một thông lệ quốc tế, là một điểm tạo thuận lợi thu hút đầu tư nước ngoài, nếu không đây sẽ trở thành một rào cản mới trong thu hút đầu tư.

Đồng quan điểm trên, ông Vương Minh Đức, Giám đốc Kỹ thuật và An toàn sức khỏe môi trường Công ty TNHH Thăm dò và Khai thác Dầu khí ExxonMobil Vietnam và ông Đỗ Ngọc Thanh, Phó Tổng Giám đốc Công ty TNHH Dầu khí Việt Nhật cũng cho rằng, hoạt động của ngành Dầu khí trên thế giới xoay quanh ngôn ngữ tiếng Anh. Trong đó, có rất nhiều từ ngữ chuyên ngành có thể sẽ không thể giải nghĩa một cách chính xác trong tiếng Việt.

Hợp đồng dầu khí được ký kết ngay từ ban đầu bằng tiếng Anh là rất cần thiết, điều này cũng đã trở thành một thông lệ quốc tế, là một điểm tạo thuận lợi thu hút đầu tư nước ngoài, nếu không đây sẽ trở thành một rào cản mới trong thu hút đầu tư.

Thực tế, đặc thù của hoạt động dầu khí là mang tính quốc tế cao. Ngành dầu khí nước ta vẫn sử dụng ngôn ngữ trong hợp đồng dầu khí bằng tiếng Việt và tiếng Anh; điều đó không có vướng mắc, khó khăn gì. Vì vậy, đây không phải là một điểm cần phải sửa đổi trong Luật Dầu khí.

Dự thảo Luật Dầu khí (sửa đổi) quy định như trên có thể coi là một điểm đi lùi trong cơ chế chính sách đối với hoạt động dầu khí. Điều này không phù hợp với việc xây dựng hệ thống pháp luật nói chung và hệ thống pháp luật về dầu khí nói riêng, không cải thiện môi trường đầu tư trong lĩnh vực này.

Do đó, để phù hợp với đặc điểm của hoạt động dầu khí là hoạt động mang tính chuyên ngành và mang tính quốc tế cao, đồng thời tạo điều kiện cho các nhà thầu dầu khí tiềm năng tiếp cận với hợp đồng dầu khí hiện hữu thì tại thời điểm ký kết hợp đồng dầu khí nên được ký kết bằng tiếng nước ngoài thông dụng (thường là tiếng Anh) ngay từ thời điểm ký kết hợp đồng mà không phụ thuộc vào quốc tịch của nhà thầu tại thời điểm ký hợp đồng.

Tránh chồng chéo, bảo đảm tính khả thi và phù hợp thực tiễn

Bên cạnh đó, nhằm giải quyết xung đột, chồng chéo trong quá trình áp dụng Luật Dầu khí với Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp (Luật QLSDVNN), việc bổ sung quy định tại Điều 36 Dự thảo luật về quy trình thực hiện chuyển nhượng quyền lợi tham gia trong trường hợp Petrovietnam/doanh nghiệp 100% vốn của Petrovietnam là Bên chuyển nhượng sẽ được thực hiện theo Luật Dầu khí là rất cần thiết.

Thực tế triển khai việc chuyển nhượng này cho thấy, việc quy định nội dung này vào Luật QLSDVNN là không phù hợp vì đặc điểm của “tài sản dầu khí” chào bán là khác biệt cho nên việc phải tổ chức chào hàng cạnh tranh dựa trên kết quả thẩm định của một tổ chức độc lập về giá trị khởi điểm của tài sản là không khả thi và phù hợp.

Thứ nhất, không có tổ chức nào có thể định giá được tài sản dầu khí này. Thứ hai, việc thuê các tổ chức thẩm định giá trị tài sản chào bán và tổ chức chào hàng cạnh tranh sẽ khó tránh khỏi việc không bảo đảm các yếu tố về quốc phòng, an ninh.

Ngoài ra, với quy định liên quan đến quản lý và sử dụng vốn nhà nước trong hoạt động dầu khí (quản lý vốn của Petrovietnam và doanh nghiệp (DN) 100% vốn của Petrovietnam trong thực hiện đầu tư các dự án dầu khí), thì Dự thảo Luật (Điều 63 và Điều 66) chỉ có quy định thẩm quyền của Hội đồng thành viên (HĐTV) và Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp (UBQLVNN) liên quan đến việc sử dụng vốn của Petrovietnam và Công ty 100% vốn của Petrovietnam tham gia các dự án/hoạt động dầu khí.

Cụ thể, giao toàn bộ việc phê duyệt sử dụng vốn của Petrovietnam và doanh nghiệp 100% vốn của Petrovietnam cho HĐTV Tập đoàn này (Điều 63 Dự thảo Luật Dầu khí sửa đổi); và trách nhiệm (thẩm quyền) của UBQLVNN chỉ gửi ý kiến về việc sử dụng vốn của Petrovietnam để Bộ Công thương xem xét thẩm định (Điều 66 Dự thảo Luật Dầu khí sửa đổi).

Quy định trên không rõ về trình tự, thủ tục, hồ sơ để HĐTV Petrovietnam phê duyệt trong trường hợp Petrovietnam/DN 100% vốn của Petrovietnam thực hiện hoạt động dầu khí theo các giai đoạn của hợp đồng phân chia sản phẩm (PSC) và dự án dầu khí; và không quy định rõ về các bước, trình tự để UBQLVNN tham gia ý kiến về việc sử dụng vốn của Petrovietnam tại các dự án, hoạt động dầu khí.

Mong muốn Luật Dầu khí sửa đổi với những điểm mới, tiến bộ sẽ sớm được thông qua và thực thi, đáp ứng kỳ vọng của Đảng, Nhà nước, xã hội, doanh nghiệp.

TS Nguyễn Quốc Thập - Chủ tịch Hội Dầu khí Việt Nam.

Cụ thể, nếu trong trường hợp UBQLVNN có ý kiến “không đồng ý” hoặc “việc sử dụng vốn của Petrovietnam cần xem xét lại” thì Bộ Công thương có thẩm định và quyết định trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt được không? Thêm nữa, khi triển khai dự án dầu khí có sự tham gia của Petrovietnam và DN 100% vốn của Petrovietnam thì Petrovietnam vẫn phải đồng thời thực hiện 2 quy trình.

Cụ thể: các hồ sơ trình phê duyệt kế hoạch đại cương phát triển mỏ dầu khí (ODP), kế hoạch khai thác sớm mỏ dầu khí (EDP), kế hoạch phát triển mỏ dầu khí (FDP) theo Luật Dầu khí; các hồ sơ trình UBQLVNN về việc phê duyệt phương án vốn cho việc triển khai ODP/EDP/FDP.

Sau khi đã có sự chấp thuận của cả cơ quan quản lý nhà nước về dầu khí và UBQLVNN, Petrovietnam thực hiện phê duyệt riêng và hệ quả của việc này là quá trình trình và phê duyệt sẽ bị kéo dài và chồng chéo. Đây cũng chính là vấn đề vướng mắc hiện nay chưa giải quyết được.

TS Nguyễn Quốc Thập - Chủ tịch Hội Dầu khí Việt Nam đánh giá cao Dự thảo Luật Dầu khí (sửa đổi) và kỳ vọng những vướng mắc còn tồn tại sẽ tiếp tục được chỉnh lý trong dự thảo hoặc trong thông tư hướng dẫn thi hành Luật; cũng như mong muốn Luật Dầu khí sửa đổi với những điểm mới, tiến bộ sẽ sớm được thông qua và thực thi, đáp ứng kỳ vọng của Đảng, Nhà nước, xã hội, doanh nghiệp.

Hoạt động Dầu khí trên biển ngoài vấn đề kinh tế, còn gắn với an ninh, quốc phòng.

Có thể bạn quan tâm

[Ảnh] “Bộ não” điều hành sân bay Long Thành trước thời khắc đón chuyến bay đầu tiên

[Ảnh] “Bộ não” điều hành sân bay Long Thành trước thời khắc đón chuyến bay đầu tiên

Cùng với các hạng mục đang được tăng tốc đẩy nhanh tiến độ để kịp khánh thành, đón chuyến bay đầu tiên vào ngày 19/12 tới, thì Đài Kiểm soát không lưu sân bay Long Thành được ví như “bộ não” điều hành sân bay lớn nhất nước ta này đang bước vào thời điểm cuối cùng lắp đặt các thiết bị để cơ bản hoàn thành trước ngày 15/12.

Quang cảnh hội thảo.

Hành trình “Tri thức trồng và chế biến cà-phê” trở thành di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại

Hội thảo khoa học - diễn đàn quốc tế năm 2025 về “Chuỗi giá trị ngành công nghiệp cà-phê toàn cầu - Phát triển toàn cầu, địa phương và bền vững” không chỉ thảo luận về chuỗi giá trị ngành công nghiệp cà-phê toàn cầu, mà còn hướng đến phát triển bền vững gắn với bản sắc văn hóa và tri thức bản địa.

Tổng số lao động đăng ký là 1.050,8 nghìn lao động trong 11 tháng qua, tăng 16% so với cùng kỳ 2024. (Ảnh: HNV)

Cả nước có gần 178 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới 11 tháng qua

Theo Cục Thống kê (Bộ Tài chính), 11 tháng năm 2025, cả nước có gần 178 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng số vốn đăng ký là 1.753,2 nghìn tỷ đồng và tổng số lao động đăng ký là 1.050,8 nghìn lao động, tăng 20,9% về số doanh nghiệp, tăng 20,9% về vốn đăng ký và tăng 16% về số lao động so cùng kỳ năm 2024.

Ông Luis Alberto Hernández Tejeda, Tổng Giám đốc Công ty Alquizar và ông Nguyễn Khắc Hoàng, Tổng Giám đốc Công ty Hoàng Gia Việt ký kết văn bản hợp tác. (Ảnh: Đại sứ quán Việt Nam tại Cuba)

Việt Nam và Cuba ký kết dự án hợp tác nông nghiệp trị giá hơn 50 triệu USD tại Cuba

Việc Công ty Hoàng Gia Việt ký kết Hợp đồng Liên doanh kinh tế quốc tế với Công ty Nông nghiệp Alquizar thuộc Tập đoàn Doanh nghiệp Nông-Lâm nghiệp Artemisa của Cuba không chỉ là một thỏa thuận thương mại đơn thuần, mà còn là minh chứng cho nỗ lực ngoại giao kinh tế tích cực của Đại sứ quán Việt Nam tại Cuba.

Nghệ nhân chế tác phụ kiện bạc tại tỉnh Hồ Nam, miền trung Trung Quốc. (Ảnh: Xinhua)

Ngày 6/12, giá bạc khôi phục đà tăng

Tính đến 10 giờ 10 phút sáng 6/12 (giờ Việt Nam), giá bạc khôi phục đà tăng, giao dịch quanh mức 58,273 USD/ounce. Cùng chiều với giá bạc thế giới, nhiều doanh nghiệp trong nước như: Phú Quý, Ancarat, Sacombank… đồng loạt điều chỉnh tăng giá bạc giao dịch ở hai chiều mua-bán.

Vận hành nhà máy điện rác ở Gia Bình, Bắc Ninh. (Ảnh NAM PHONG)

Thúc đẩy các dự án đầu tư xanh

Trong hành trình hiện thực hóa cam kết Net Zero vào năm 2050, bên cạnh các chính sách chung, những chính sách cụ thể thúc đẩy đầu tư xanh giữ vai trò then chốt. Thách thức lớn nhất hiện nay là ngoài yêu cầu về kỹ thuật, hạ tầng, cơ chế phối hợp và nhân lực, các dự án xanh luôn cần nguồn vốn rất lớn.

ESG đã trở thành yêu cầu bắt buộc đối với doanh nghiệp muốn duy trì tính cạnh tranh, thu hút nhà đầu tư và phát triển bền vững. (Ảnh: Đỗ Bảo)

Thực hành ESG cần sự đột phá

Những năm gần đây, Đảng và Nhà nước liên tục ban hành các chủ trương, chính sách, định hướng quan trọng thúc đẩy kinh tế xanh và thực hành ESG (Môi trường-Xã hội-Quản trị); trong đó, nổi bật là Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050.

[Video] Tuyến Cát Linh – Hà Đông vận hành hệ thống soát vé tự động không dùng tiền mặt

[Video] Tuyến Cát Linh – Hà Đông vận hành hệ thống soát vé tự động không dùng tiền mặt

Sáng 5/12, tại ga Cát Linh, tuyến đường sắt đô thị Cát Linh - Hà Đông chính thức vận hành hệ thống kiểm soát vé tự động. Hệ thống được lắp đặt đồng bộ tại các nhà ga, cho phép hành khách thanh toán bằng căn cước công dân gắn chip, mã QR, thẻ ngân hàng quốc tế cùng nhiều phương thức điện tử khác.

Sản xuất phân bón tại Công ty cổ phần Phân đạm và Hóa chất Hà Bắc.

Tái cấu trúc công nghệ sản xuất hóa chất

Giám đốc Công ty cổ phần DAP số 2 - Vinachem Vũ Việt Tiến cho biết, những tháng đầu năm, đơn vị đối diện nhiều khó khăn như giá nguyên liệu phục vụ sản xuất tăng cao, quặng tuyển apatit thiếu, chất lượng suy giảm so với thiết kế.

Người dân tỉnh Quảng Ninh nuôi trồng thủy sản trên biển.

Nâng sức cạnh tranh cho nghề nuôi trồng thủy sản biển

Việt Nam có đường bờ biển dài, nhiều đảo, vịnh, đầm, phá… tạo điều kiện thuận lợi để phát triển đa dạng các loại hình nuôi trồng thủy sản. Hiện nay, nhiều hợp tác xã, nhân dân tại các địa phương ven biển đang ứng dụng công nghệ mới vào nuôi trồng thủy sản giúp nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm và thu nhập.