Tại hội thảo, các chuyên gia quốc tế, diễn giả đã chia sẻ những bài học kinh nghiệm về chuyển đổi số trong quản lý, vận hành, bảo trì hệ thống đường sắt đô thị; nêu những giải pháp thiết thực, lộ trình phù hợp về chuyển đổi số trong quản lý, vận hành và bảo trì hệ thống đường sắt đô thị hiện hữu và trong tương lai, góp phần phát triển nền công nghiệp đường sắt nội địa có khả năng tự chủ về công nghệ, phát triển hệ thống đường sắt đô thị Thủ đô đồng bộ, hiện đại và bền vững.
Phát biểu ý kiến khai mạc hội thảo, Tiến sĩ Khuất Việt Hùng, Chủ tịch Hội đồng thành viên Công ty Đường sắt Hà Nội (Hà Nội Metro) nhận định, chuyển đổi số không chỉ là xu thế mà còn là nền tảng và động lực quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội của các quốc gia trên thế giới.
Tại Việt Nam, Nghị quyết 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị đã xác định rõ chuyển đổi số quốc gia là đột phá quan trọng, không chỉ đơn thuần là ứng dụng công nghệ, mà là cuộc cách mạng toàn diện về thể chế, nhân lực và quản trị quốc gia và động lực để xây dựng và phát triển một nền công nghiệp nội địa, có khả năng tự chủ về công nghệ, nhất là công nghệ chiến lược; thúc đẩy hợp tác sâu rộng, hiệu quả, thực chất.
“Tuy nhiên, cơ hội luôn đi kèm với thách thức, nhất là vấn đề nguồn nhân lực, hợp tác chuyển giao công nghệ, làm chủ và tự chủ công nghệ, phát triển nền công nghiệp nội địa để đáp ứng nhu cầu chuyển đổi số. Từ đó, đặt ra những câu hỏi mang tính thách thức: Làm thế nào để quá trình chuyển đổi số có thể vừa đáp ứng yêu cầu cấp bách trước mắt, vừa bảo đảm tầm nhìn dài hạn?
Đâu là lĩnh vực cần tập trung ưu tiên phát triển trước trong bối cảnh nguồn lực còn hạn chế? Làm gì để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của quá trình chuyển đổi số? Liệu chúng ta có thể đi tắt đón đầu trong việc làm chủ công nghệ thông qua chuyển đổi số khi nhìn nhận những bài học kinh nghiệm thực tiễn từ các nước phát triển?”, Tiến sĩ Khuất Việt Hùng trăn trở.
Hà Nội đang trong quá trình phát triển mạnh mẽ hệ thống đường sắt đô thị để giải quyết các thách thức về ùn tắc giao thông, ô nhiễm môi trường và đô thị hóa bền vững. Hội thảo chính là diễn đàn để chia sẻ và thảo luận một số kết quả đã đạt được, những thách thức và giải pháp thiết thực về chuyển đổi số trong quản lý, vận hành và bảo trì hệ thống đường sắt đô thị hiện hữu và trong tương lai.
Hà Nội Metro đặt ra các mục tiêu lớn trong chiến lược chuyển đổi số, gồm: Xây dựng hệ thống quản lý vận hành-khai thác dựa trên dữ liệu số hóa toàn diện; Hình thành nền tảng bảo trì thông minh, ứng dụng phần mềm quản trị bảo trì kết cấu hạ tầng; tối ưu hóa quy trình nội bộ thông qua hệ thống quản trị doanh nghiệp (ERP); tạo lập cơ sở dữ liệu lớn phục vụ điều hành và hoạch định chính sách. Những mục tiêu này nhằm hướng đến mô hình doanh nghiệp giao thông công cộng hoạt động hiện đại, minh bạch và có khả năng mở rộng trong tương lai.
Về lộ trình triển khai đến năm 2045, Hà Nội Metro đưa ra lộ trình 3 giai đoạn. Đến năm 2027, sẽ bắt đầu phát triển các phần mềm trọng yếu phục vụ quản lý và vận hành; đến năm 2030, hoàn thiện hệ thống phần mềm quản lý điều hành thống nhất, vận hành hiệu quả phần mềm ERP và phần mềm bảo trì kết cấu hạ tầng.
Tại hội thảo, ông Atsushi Sato, Quản lý Phòng Kinh doanh Quốc tế, Công ty cổ phần Tàu điện ngầm Tokyo (Tokyo Metro) cho biết, năm 1920, Tokyo Metro được thành lập. Năm 1927, tuyến tàu điện ngầm đầu tiên của châu Á (Ginza) nối Asakusa và Ueno được khai trương. Đến năm 1990, mạng lưới tàu điện ngầm gần như hoàn thành. Tính đến tháng 3/2024, Tokyo Metro có 9 tuyến tàu điện ngầm với 180 ga trong và chung quanh trung tâm Tokyo, dài 195km, vận hành liên thông với các công ty vận tải đường sắt khác với chiều dài lên đến 556,6km. Năm 2023, Tokyo Metro vận chuyển mỗi ngày 6,84 triệu lượt khách; tỷ lệ đúng giờ tính toán theo tỷ lệ tàu đến trong vòng 5 phút trên tất cả các tuyến là 99,2%.
Tokyo Metro đẩy mạnh chuyển đổi số trong vận hành và bảo trì nhằm tăng hiệu quả quản lý và giảm chi phí. Ứng dụng còn giám sát vận hành tàu, thông tin về độ đông đúc với 4 mức hiển thị theo thời gian thực nhờ hệ thống camera cảm ứng chiều sâu lắp trên các toa tàu. Tokyo Metro cũng triển khai trợ lý ảo Tokyo Chatbox hỗ trợ 24/7, mỗi phòng ban đang tìm hiểu các giải pháp chuyển đổi số phù hợp để bảo trì cơ sở vật chất tương ứng.
Tiến sĩ Jitaek Oh, Nghiên cứu viên trưởng tại Viện Nghiên cứu Đường sắt Hàn Quốc (KRRI), cho hay, từ năm 1995, qua 10 năm nghiên cứu-phát triển, Hàn Quốc làm chủ công nghệ nhập khẩu và sáng tạo công nghệ mới. Từ 2010 đến nay, nhiều tuyến đường sắt cao tốc được đưa vào khai thác, giúp Hàn Quốc đạt tự chủ gần như toàn diện vào năm 2025. “Khi chuyển giao, chúng tôi tiến hành ở nhiều nơi, từ thiết kế, sản xuất đến thi công kết cấu hạ tầng đến từ nước ngoài, phần liên quan đến đầu máy. Phần công nghệ yêu cầu phụ thuộc vào quy trình, thiết kế, thi công bởi môi trường Hàn Quốc khác với nước ngoài”, Tiến sĩ Jitaek Oh nhận định.
Việc tự chủ công nghệ không thể đạt chỉ bằng tài liệu kỹ thuật hay đào tạo, mà phải thông qua sự tham gia toàn diện vào thiết kế-sản xuất-vận hành trong môi trường thực tế. Đặc biệt, những bí quyết giá trị nhất thường không nằm trong tài liệu mà được truyền đạt thông qua các mối quan hệ con người dựa trên niềm tin lẫn nhau.”Dự án đường sắt cao tốc đầu tiên của Hàn Quốc được triển khai hoàn toàn bằng công nghệ và hướng dẫn kỹ thuật từ nước ngoài, nhưng các dự án tiếp theo đã do Hàn Quốc tự phát triển, hoàn thiện toàn bộ công nghệ, sản phẩm và bí quyết kỹ thuật. Đến năm 2025, mô hình này được xem là thành công.
Hàn Quốc hiện đã tự phát triển các đoàn tàu tốc độ cao KTX-Sancheon, KTX-Eum và CheongRyong, đồng thời tiếp tục khai thác tàu KTX thế hệ đầu tiên nhập khẩu. Công nghệ tốc độ cao của Hàn Quốc là kết quả của hơn 20 năm R&D trong nước, hướng tới tự chủ hoàn toàn. Hiện Hàn Quốc đã thương mại hoá được đầu máy. Hàn Quốc đã xây dựng 16 bộ tiêu chuẩn quốc gia cho 4 lĩnh vực hỗ trợ việc thực hiện chuyển đổi số và bản sao số trên toàn bộ lãnh thổ quốc gia. Các bộ tiêu chuẩn cho 4 lĩnh vực cũng có thể hỗ trợ quá trình số hóa toàn bộ lãnh thổ quốc gia của Việt Nam.
“Hàn Quốc có thể hỗ trợ nâng cao hệ thống kỹ thuật đường sắt của Việt Nam thông qua chia sẻ sản phẩm điển hình của Hàn Quốc được xây dựng theo Luật An toàn đường sắt, như các Quy chuẩn kỹ thuật, Tiêu chuẩn và hướng dẫn, hệ thống kiểm định và chứng nhận, các yêu cầu về năng lực đối với nhân sự đường sắt, đồng thời hợp tác để xây dựng các giải pháp “may đo” phù hợp với nhu cầu riêng của Việt Nam. Chúng tôi hy vọng rằng các kinh nghiệm và sáng kiến hợp tác của Hàn Quốc sẽ góp phần hỗ trợ sự phát triển bền vững của hệ thống đường sắt Việt Nam”, Tiến sĩ Jitaek Oh phân tích.