Chủ động thích ứng, giữ vững đà tăng trưởng
Theo báo cáo của Cục Thủy sản và Kiểm ngư (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), từ năm 2024 đến nay, nuôi trồng thủy sản tiếp tục đối mặt với nhiều thách thức khi giá vật tư đầu vào ở mức cao, chi phí logistics tăng mạnh, trong khi nhu cầu tiêu thụ chững lại, quy mô sản xuất tại nhiều địa phương bị thu hẹp.
Cùng với đó, tình trạng hạn hán, xâm nhập mặn tại đồng bằng sông Cửu Long, ô nhiễm môi trường, rác thải nhựa diễn biến phức tạp; đặc biệt, bão Yagi năm 2024 và các cơn bão số 10, số 11 năm 2025 đã gây thiệt hại nặng nề, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả nuôi trồng thủy sản. Trên thị trường quốc tế, việc Ủy ban châu Âu tiếp tục duy trì cảnh báo “thẻ vàng”, cùng các yêu cầu tiêu chuẩn ngày càng khắt khe và diễn biến áp thuế của Mỹ đối với thủy sản Việt Nam trong đầu năm 2025 đã tạo thêm sức ép cạnh tranh lớn.
Trong bối cảnh đó, hoạt động sản xuất và cung ứng giống thủy sản, khâu nền tảng của nuôi trồng, chịu ảnh hưởng rõ nét khi người nuôi và thị trường xuất khẩu gặp khó, nhu cầu con giống giảm theo mùa vụ. Đây cũng là vấn đề trọng tâm được Bộ Nông nghiệp và Môi trường đặt ra trong công tác chỉ đạo, điều hành nhằm bảo đảm tăng trưởng bền vững cho toàn ngành.
Phát biểu tại Hội nghị Phát triển giống thủy sản do Bộ Nông nghiệp và Môi trường tổ chức ngày 19/12, Thứ trưởng Nông nghiệp và Môi trường Phùng Đức Tiến khẳng định mặc dù còn nhiều khó khăn thách thức nhưng ngành nông nghiệp và môi trường xác định trong khó khăn luôn tồn tại cơ hội. Thực tế thời gian qua, nhờ sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; sự vào cuộc đồng bộ của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, các địa phương và cộng đồng doanh nghiệp, ngành nuôi trồng thủy sản vẫn đạt được nhiều kết quả tích cực.
Dự kiến năm 2025, diện tích nuôi trồng thủy sản ước đạt khoảng 1,3265 triệu ha, tăng hơn 2% so với năm 2024; thể tích lồng nuôi biển đạt khoảng 98 triệu m³. Tổng sản lượng nuôi trồng thủy sản ước đạt 5.979,2 nghìn tấn, vượt kế hoạch và tăng gần 4% so với năm 2024. Sản lượng giống sản xuất đạt khoảng 392,5 tỷ con, cơ bản đáp ứng nhu cầu trong nước và một phần phục vụ xuất khẩu. Kim ngạch xuất khẩu thủy sản năm 2025 ước đạt khoảng 11 tỷ USD.
Theo Thứ trưởng Phùng Đức Tiến, kết quả này có được nhờ công tác tham mưu, chỉ đạo kịp thời và đồng bộ, trước hết là việc từng bước hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về quản lý giống thủy sản. Luật Thủy sản năm 2017 và các văn bản hướng dẫn đã tạo hành lang pháp lý vững chắc cho phát triển giống thủy sản bền vững, đồng thời liên tục được rà soát, điều chỉnh cho sát với thực tiễn sản xuất và phù hợp với mô hình tổ chức bộ máy mới.
Bên cạnh đó, việc thực thi pháp luật về giống thủy sản ngày càng đi vào nền nếp; hạ tầng kỹ thuật phục vụ sản xuất giống được quan tâm đầu tư; đặc biệt, ngành đã bước đầu chủ động được nguồn giống, nhất là tôm sú bố mẹ chọn giống trong nước, đáp ứng nhu cầu sản xuất và từng bước giảm phụ thuộc nhập khẩu.
Phát triển giống thủy sản bền vững, đáp ứng mục tiêu dài hạn
Nhìn về giai đoạn 2026-2030, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến nhận định nuôi trồng thủy sản sẽ tiếp tục đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức do tác động của chiến tranh thương mại, xung đột địa chính trị, biến đổi khí hậu ngày càng khắc nghiệt, nguy cơ bùng phát dịch bệnh và áp lực cạnh tranh gia tăng từ các quốc gia sản xuất thủy sản lớn như Ấn Độ, Ecuador, Trung Quốc, Thái Lan.
Theo Quyết định số 985/QĐ-TTg ngày 16/8/2022 của Thủ tướng Chính phủ, đến năm 2030, ngành nuôi trồng thủy sản phấn đấu đạt tổng sản lượng 7 triệu tấn/năm, kim ngạch xuất khẩu 12 tỷ USD/năm, tốc độ tăng trưởng giá trị bình quân trên 4,5%/năm.
Để hiện thực hóa mục tiêu này, Bộ Nông nghiệp và Môi trường phối hợp Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Bình tổ chức Hội nghị Phát triển giống thủy sản, nhằm đánh giá toàn diện thực trạng công tác quản lý, sản xuất, cung ứng và tiêu thụ giống thủy sản giai đoạn 2024-2025; đồng thời thảo luận, đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả phát triển giống trong năm 2026 và các năm tiếp theo.
Tại hội nghị, Bộ Nông nghiệp và Môi trường xác định một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm, trước hết là xây dựng, hoàn thiện cơ sở hạ tầng và nâng cao năng lực sản xuất giống thủy sản. Theo đó, đối với các tỉnh có lợi thế và tiềm năng tự chủ sản xuất giống, cần có quy hoạch cụ thể về địa điểm sản xuất; xây dựng các nhóm dự án ưu tiên, kêu gọi đầu tư theo hướng sản xuất hàng hóa quy mô lớn, hiện đại, đồng bộ.
Bộ cũng khuyến khích các tổ chức, cá nhân đầu tư vào nghiên cứu, chọn tạo giống thủy sản bố mẹ chất lượng cao, từng bước gia hóa các đối tượng nuôi chủ lực theo định hướng của Nghị quyết số 57 và Chương trình 703; hình thành hệ thống nghiên cứu, chọn tạo giống tại các địa phương trọng điểm như Lâm Đồng, Khánh Hòa, Gia Lai, Đắk Lắk, An Giang… qua đó thu hút các thành phần kinh tế tham gia nghiên cứu, sản xuất và phát triển giống, đáp ứng yêu cầu thực tiễn sản xuất.
Cùng với đó, ngành tập trung xây dựng, ban hành các tiêu chuẩn, quy định áp dụng hệ thống kiểm soát chất lượng, an toàn sinh học và tiêu chuẩn chất lượng trong sản xuất, ương dưỡng giống thủy sản; đồng thời hoàn thiện các tiêu chuẩn, phương pháp thử để kiểm soát, đánh giá, giám định và kiểm định chất lượng giống, góp phần nâng cao hiệu quả và tính bền vững của nuôi trồng thủy sản trong giai đoạn tới.