Sau rất nhiều năm, Nam đi bộ đội, từng gặp chồng tôi, nhà văn Triệu Bôn ở chiến trường, từng nhắc đến mưa tầm tã ở Trường Sơn, ăn hạt bo bo, ngâm mình dưới nước và bom đạn trắng trời… Rất nhiều năm sau kỷ niệm vẫn còn khắc khoải, với một thời cùng nhà văn Nguyễn Trọng Oánh, nhà thơ Nam Hà. Bây giờ họ đã trở thành cát bụi, nhưng sáng tác của họ vẫn nằm lòng trong thế hệ trẻ.
1/Tôi vừa đọc “Luẩn quẩn khi yêu”, xuất bản tháng 2/2025, NXB Hội Nhà văn ấn hành. Đọc xong, tôi nghi ngờ chính mình, có thực tình yêu luẩn quẩn? Không. Tình yêu làm con người thăng hoa, kể cả thất bại ê chề, đau đớn. Nhưng tình yêu đã cho ta bài học lớn về nhân cách làm người. Thơ Mai Quỳnh Nam nghiêng về trí tuệ, đọc nhiều và chiêm nghiệm để buông với mỗi một câu không thở dài “em sống giữa lòng anh trong trẻo nhất”. Tình yêu cho ta một giả thiết khác, hình như tình yêu cần sống trong lòng một người đã là quá đủ. Làm sao phải yêu nhiều mới là yêu?
Với 101 bài thơ thật ngắn, Mai Quỳnh Nam viết cực ngắn. Thơ Nam kén người đọc, bạn tâm sự với tôi: “thơ mình chẳng bán được quyển nào Hằng ạ”. Nam cười nhẹ, lặng thinh. Ông biết thừa thơ ông bán chả có ai mua, vì mỗi trang có một câu thơ, mỗi trang có 2 câu thơ, hai trang thơ dài nhất cũng được tới 31 dòng. Rất kiệm lời, chắt lọc. Thơ để tặng bạn thơ, những ai yêu thi ca, và đọc sách. Thơ có một bạn hiểu mình kiểu như Bá Nha, Tử Kỳ trong âm nhạc, thế là đủ.
Một chặng dài làm thơ, mỗi bài thơ đều ánh lên cảm xúc, rồi khẽ nhắc như chỉ có vậy thôi, mà không phải vậy. Gấp trang sách làm ta nghĩ ngợi, khoảnh khắc sống của con người trên cõi này, người đang yêu đương và cũng có người không đương nổi sức nặng thì tình tan rã. Sự tan rã trong một gia đình từng có tình yêu, ra tòa, như bài “Bé Hạnh Lan” ngồi đó, không nhắc đến nỗi buồn mà thấm sự cô quạnh. Hay như cách nhìn công việc: “công việc như quả bóng cao su/rơi xuống nảy lên/tình yêu như quả bóng thủy tinh/trượt tay là vỡ”. Nhà thơ viết như đang nhìn sự việc, không bình luận không tham vấn, mà khơi gợi đồng loại nghĩ xem có đúng thế chăng: “anh đi cùng em trên cuộc đời này/qua một số bến/qua rất nhiều gian nan/khi chết/mỗi người văng về một nơi trên thế gian”.
Và cách chiêm nghiệm tình yêu vừa đủ sâu sắc của đàn ông nhìn góc khác về đàn bà: “anh nằm bên em/bất động/hai ta đang sống một cuộc sống khác”. Cũng có những phút giây dồn nén khác mà chỉ thú nhận với thơ: “đáng ghét lắm phải không?/anh xin lỗi/khi ấy/trái tim anh đang cháy”.
Trái tim bất chợt giây phút huyền ảo rất thi sĩ của nhà thơ, cũng có cả chất chứa sự hoang vu của kiếp người: “em thêm một nỗi ưu phiền/tôi thêm một nỗi truân chuyên trong đời/tàn ngày một cánh hoa rơi/một đôi chim nhạn cuối trời biệt tăm”.
2/Mai Quỳnh Nam chuyên biệt làm công tác nghiên cứu xã hội học, ông nhìn ra tỷ lệ giới trong thơ. Trong thơ không thấy có tỷ lệ, nhưng giới thì có thơ: “Nhà xã hội học vứt bỏ những hoài nghi/GIOSEPH BRODSKY/52/(trên)48/tỷ lệ đẹp/mỗi phụ nữ có thể hy vọng một đàn ông”. Thơ Nam rất khó đọc với người bình dân, càng khó hiểu khi người đời không quan tâm tới tỷ lệ dân số và cảnh báo sự cân đối của giới với các nhà nghiên cứu về dân số và kế hoạch hóa gia đình. Thơ ông “Lột tả”/ước gì anh như cái ăng ten/để đón bắt/thu về/nhận/nhiều kênh phát/chỉ cần bấm nút/lập tức/em đến cùng anh.
Nhưng ăng ten là ăng ten, sẽ: “trắng/lạnh/những thanh kim khí”. Thơ chỉ cần hơi ấm của hơi thở và con tim người. Thơ trong ánh chiều phiêu bạt của ông cũng ánh lên từ chiếc lá: “có thể như chiếc lá/dính cùng một nỗi đau”. “Vật chất anh và em/chuyển thành biến thể khác”.
Hoặc cách nhìn của ông về “Mộ đôi” cũng lạ: “hai tấm thân tan rã/truyền hơi ấm cho nhau/dưới đất lạnh/từ lâu/họ chỉ còn im lặng”. Đến mộ đôi cũng hắt lên số phận hiu quạnh, như khi ai đó từng sống bên nhau, là đôi lứa mà mỗi người nhìn đi một hướng khác. Thơ ông hắt lên sự cùng kiệt của nỗi cô đơn kiếp người. Ngay cả nỗi nhớ của con người, thơ hồ nghi chắc gì bất tử? “Nỗi nhớ có bất tử không?”. Và thơ ông khẳng định hoàn toàn có thể, khi mà “nỗi khắc khoải chốn lòng người/chạm nỗi trống vắng cõi lòng người/rồi nhẩn nha thơ/nó yếu mềm/và có khi là vô thủy vô chung”. Thơ cũng nên khơi gợi để người đang yêu, nhớ nhung liệu mà nghĩ lại, nỗi nhớ có thể như quả bóng bay, vỡ tan lúc nào không hay.
Có thể nói sau một chặng dài làm thơ và chọn cho mình một lối đi “độc bản”, mỗi trang sách một câu thơ, mỗi trang sách 2 câu thơ, dài nhất là hai trang sách 31 dòng, thơ không bán được quyển nào. Có người bảo, cách viết như thế ai mà chẳng viết được. Tôi không nghĩ như vậy, phải đọc rất nhiều sách phải đi hết cây cầu tình yêu, mất mát và cay đắng, và chiêm nghiệm, nghiên cứu, viết, đi theo con đường mình chọn. Ai thích thơ ông cũng hay, không thích thơ ông cũng chẳng sao, miễn là ông nghiên cứu để viết theo cách của riêng mình. Ở đời có một niềm say mê từ thuở ấu thơ khi nằm bên mẹ đã mơ, thích làm thơ thích đọc thơ, như Mai Quỳnh Nam, hiện thực đã trở thành nhà thơ. Mơ như thể cuộc đời để lại ít câu chữ chẳng đủ lắm sao?