Trang chủ Trung du và miền núi Bắc Bộ Đồng bằng sông Hồng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ Tây Nguyên Đông Nam Bộ Đồng bằng sông Cửu Long

Giữ đất bằng khoa học

Mô hình cải tạo đất và trồng lúa không cày xới do Trường đại học Cần Thơ phối hợp cùng tổ chức JICA (Nhật Bản) triển khai đang mở ra hướng đi mới giúp nông nghiệp Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) chống chịu tốt hơn trước biến đổi khí hậu.

PGS, TS Nguyễn Khởi Nghĩa hướng dẫn sinh viên tham gia nghiên cứu dự án.
PGS, TS Nguyễn Khởi Nghĩa hướng dẫn sinh viên tham gia nghiên cứu dự án.

Giữ “sức khỏe” của đất

Khai thác nước ngầm, phù sa suy giảm và khí hậu cực đoan đang khiến ĐBSCL đứng trước những sức ép chưa từng có. Trung bình mỗi năm nền đất lún 1-2 cm, xâm nhập mặn tiến 70-90 km vào nội đồng, hạn hán kéo dài, sạt lở xảy ra khắp nơi. Đáng lo ngại, 60% diện tích có cao độ dưới 1 mét, khiến vùng này đối mặt nguy cơ suy giảm sức sản xuất nếu không thay đổi cách làm nông trên nền đất ngày càng yếu.

Trong bối cảnh đó, những mô hình dựa trên khoa học như Cải tạo đất và trồng lúa không cày xới là một hướng đi khả quan. PGS, TS Nguyễn Khởi Nghĩa, Phó Trưởng khoa Khoa học đất (Trường Nông nghiệp, Trường đại học Cần Thơ) cho rằng, nút thắt lớn nhất của đồng bằng không nằm ở năng suất lúa, mà ở “sức khỏe của đất”. Việc cày xới liên tục làm hệ vi sinh vật suy kiệt, đất mất kết cấu và cơ chế “cày xới tự nhiên”, giảm khả năng giữ nước, dưỡng chất. Nền đất yếu đi sẽ kéo theo sụt lún nhanh hơn. Nếu không bắt đầu từ phục hồi đất, mọi giải pháp khác chỉ mang tính tạm thời.

Từ nhận thức ấy, nhóm nghiên cứu xây dựng quy trình canh tác phục hồi đất dựa trên nguyên tắc không cày xới, giảm một nửa lượng phân hóa học, áp dụng chu trình nước “ướt - khô xen kẽ” và bổ sung vi sinh vật có lợi. Đây là cách “kích hoạt lại” sức sống của đất, biến giun đất, nấm và vi khuẩn trở thành lực lượng cày xới sinh học bền vững mà không công nghệ cơ giới nào thay thế được.

Kết quả thí điểm ở hai tỉnh Sóc Trăng và Kiên Giang (cũ) cho thấy sự thay đổi rõ rệt. Lão nông Trần Văn Tỉnh (xã Long Điền), người tiên phong giao 1 ha đất cho nhóm nghiên cứu chia sẻ: “Đất trước bở nhưng nhanh chai, nay chắc và tơi, bước lên không còn lún sâu. Qua trồng thử cho thấy lúa khỏe hơn, giảm công canh tác”.

Giảm phát thải nhà kính

Việc không cày lật và không vùi rơm rạ đã làm giảm đáng kể khí mê-tan. Ngoài ra, việc giảm phân bón hóa học giúp giảm N₂O - loại khí có hệ số gây nóng gấp hàng trăm lần CO₂. Nhờ đó, ruộng lúa trở thành nơi tích trữ carbon, mở ra cơ hội hình thành tín chỉ carbon trong nông nghiệp. Công ty cổ phần Nông nghiệp công nghệ cao Trung An đã tham gia thử nghiệm và mở rộng mô hình từ 5 ha lên 600 ha để đáp ứng thị trường gạo xanh. Ngoài ra, nhiều tập đoàn lớn như Tổng công ty Lương thực Miền Nam cũng đề xuất tham gia dự án.

Với sinh viên, dự án trở thành môi trường đào tạo thực chất. Sinh viên Đỗ Anh Hào, quê ở Chợ Mới (An Giang) cho biết: Lớn lên ở vùng đất sạt lở quanh năm, câu hỏi làm sao để giữ được từng thửa đất quê hương luôn đau đáu trong lòng. Được tham gia thu mẫu, phân tích đất và trực tiếp trao đổi với nông dân, tôi có thêm thực tiễn gắn bó với đồng ruộng.

Nhưng điều đáng bàn hơn cả là chuyển biến tư duy. Bà Lê Trần Minh Hiếu, Chủ tịch UBND xã Long Điền, An Giang chia sẻ, tham gia dự án, nông dân bắt đầu quan tâm đến sức khỏe đất, giảm phát thải và tiết kiệm nước... những yếu tố trước đây ít được đặt lên bàn cân. Khi tư duy thay đổi, mô hình khoa học mới có “đất sống” để nhân rộng, bền vững và lâu dài.

ĐBSCL chỉ có thể trụ vững trước biến đổi khí hậu khi khôi phục được sức chống chịu của chính nền đất nuôi dưỡng mình. Xét ở tầm tổng thể, mô hình cải tạo đất và canh tác lúa không cày xới không chỉ là một giải pháp kỹ thuật, mà còn đặt nền móng cho một cách tiếp cận mới: Coi đất như một thực thể sống và coi khoa học đất là chìa khóa bảo đảm an ninh lương thực cũng như phát triển bền vững cho đồng bằng.

Quá trình triển khai dự án cho thấy các chỉ số khoa học của đất được cải thiện: Mật độ vi sinh vật tăng; đất chuyển sang dạng viên ổn định; rễ phát triển khỏe; nước tưới giảm mà năng suất vẫn giữ ổn định. Đây là bằng chứng rằng khi đất được phục hồi đúng cách, lợi ích kinh tế và sinh thái cùng lúc được cải thiện.