NHƯNG nhìn một cách tích cực, mỗi một cuộc khủng hoảng đi qua đều là một bài kiểm tra sức chịu đựng và mang giá trị cảnh báo lớn. Một người trúng phong hàn là bởi gặp gió độc, nhưng cũng là bởi anh ta không có sức đề kháng đủ mạnh. Một đất nước có thể không sụp đổ chỉ bởi một đại dịch, cũng như một người có thể không chết vì một trận ốm, nhưng mức độ trầm trọng là dấu hiệu cho thấy nhu cầu thay đổi: không thể tiếp tục đi theo lối mòn và kỳ vọng cuộc khủng hoảng tiếp theo sẽ không xảy ra.
Đại dịch, bởi thế, là một ngã ba đường. Quốc gia nào nhìn nhận được vấn đề, cải thiện, và lựa chọn hướng phát triển phù hợp sẽ chủ động bước về phía thành công. Ngược lại, nếu vẫn bảo thủ, trì trệ, tiếp tục bám theo cách làm cũ, thì tất yếu sẽ dẫn tới thất bại. Thành công của công cuộc Đổi mới ở nước ta bắt đầu từ Đại hội VI của Đảng cũng khởi phát từ yêu cầu cấp bách của thực tiễn, khi đất nước trải qua thời điểm vô cùng khó khăn trong nửa đầu thập niên 80 của thế kỷ trước. Nếu lãnh đạo không vượt qua được trở lực của trì trệ và bảo thủ vào mùa đông năm 1986, chắc chắn Việt Nam sẽ không có được những thành tựu như ngày hôm nay.
Sau hơn 30 năm Đổi mới, cỗ máy tăng trưởng dường như chậm lại. Trong vòng một thập niên đổ lại, đã có nhiều ý kiến về việc tìm kiếm động lực mới cho phát triển, mà một số chuyên gia gọi là "Đổi mới 2.0". Tuy nhiên, một đoàn tàu đang vận hành tốt, dù có những chỗ chưa hoàn hảo, cũng rất khó để hiệu chỉnh. Khi đại dịch bùng phát, đoàn tàu đi chậm lại, thì đó chính là thời cơ tốt để chẩn đoán các vấn đề, nâng cao khả năng vận hành, và điều chỉnh hướng đi hợp lý để sẵn sàng bứt tốc khi tái khởi động.
COVID-19, đặc biệt là đợt bùng phát dịch lần thứ tư, trước hết cho thấy vấn đề lớn trong chính sách phát triển kinh tế của nước ta trong thời gian qua. Điều dễ nhận thấy là việc ưu tiên tăng trưởng bằng mọi giá khiến chính sách về an sinh xã hội cho người lao động chưa được quan tâm đúng mức. Mặc dù là nguồn năng lượng của nền kinh tế, nhiều lao động vẫn phải chật vật trong những phòng trọ không đủ tiêu chuẩn, gặp khó khăn trong việc tiếp cận dịch vụ y tế-giáo dục, và thiếu những nguồn hỗ trợ kịp thời trong lúc khẩn cấp. Ở điều kiện bình thường, cuộc sống của họ vẫn có thể chấp nhận được. Nhưng khi đại dịch bùng phát, họ chính là những người dễ bị tổn thương nhất. Không phải tự nhiên mà sau khi phong tỏa kết thúc, hàng trăm nghìn lao động ở thành phố và khu công nghiệp tìm đường về quê "lánh nạn".
Phục hồi kinh tế hậu Covid-19, vì thế, cần thay đổi với ưu tiên phúc lợi xã hội, thay vì tăng trưởng bằng mọi giá. Bài học quan trọng nhất, nói như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, là phải đặt con người ở vị trí trung tâm phát triển. Không thể coi lao động như một loại tư bản đầu vào, người mua chỉ cần quan tâm đến "sản phẩm" khi họ bước chân vào nhà máy. Thành công kinh tế từ Đổi mới sẽ không có ý nghĩa nếu cuộc sống của người lao động vẫn bấp bênh, không đủ sức kháng cự trước khủng hoảng.
Khi con người ở trung tâm phát triển, những khoản đầu tư cần được đánh giá không chỉ dựa trên đóng góp về quy mô tăng trưởng hay tăng thu ngân sách, mà còn ở khả năng mang lại phúc lợi cho người lao động, an sinh cho người dân, cũng như bảo đảm môi trường. Ưu đãi nên dành cho những doanh nghiệp có chính sách tốt cho người lao động, từ đào tạo tay nghề cho tới phúc lợi, thay vì chỉ nhằm tận dụng nguồn nhân công giá rẻ. Năng lực lãnh đạo, đặc biệt ở địa phương, cần được nhìn nhận thông qua khả năng cải thiện đời sống người dân.
Xoay trục theo hướng nền kinh tế vị nhân sinh là không dễ dàng. Tuy nhiên, chúng ta đang có những điều kiện tốt về ngoại lực và nội lực để tiến hành "Đổi mới 2.0" trong thời kỳ hậu Covid-19.
Về ngoại lực, không thể phủ nhận rằng vị thế của Việt Nam, cả về kinh tế và địa chính trị, đã được nâng lên đáng kể. Những biến động quốc tế trong vài năm qua, đặc biệt là thương chiến Mỹ-Trung, khiến Việt Nam trở thành điểm đến lý tưởng cho nhiều nhà đầu nước ngoài. Những hiệp định thương mại thế hệ mới mà Việt Nam tham gia, như Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam-Liên minh châu Âu (EVFTA), đều đưa ra những tiêu chuẩn rất cao về thể chế, từ lao động, doanh nghiệp nhà nước, cho tới môi trường. Thêm vào đó, sức hút của Việt Nam còn nằm ở nền kinh tế trẻ, năng động, và có tốc độ tăng trưởng cao. Với những yếu tố đó, chúng ta có đủ cơ sở để chọn lọc kỹ hơn những dự án đầu tư nước ngoài, khuyến khích đổi mới-sáng tạo của các doanh nghiệp trong nước, thay vì thu hút vốn đầu tư bằng mọi giá như trước.
ĐỘNG lực quan trọng nhất để xoay trục tăng trưởng tất nhiên nằm ở nội lực. Trở lực lớn nhất cho tăng trưởng trong thời gian qua là bộ máy hành chính cồng kềnh, quan liêu, với tư duy hoạt động nặng tính xin-cho hơn là nhà nước phục vụ. Nỗ lực cải cách hành chính trong 30 năm qua, dù có một số thành công nhất định, vẫn chưa đạt được kết quả như mong đợi. Nguy hiểm hơn, bộ máy nhà nước có dấu hiệu xa rời quần chúng, dẫn tới tình trạng mà Tổng Bí thư gọi là "nhạt Đảng, khô Đoàn, chán chính trị". Để cải cách thể chế và khơi nguồn nội lực, bởi thế, cần sự tham gia sâu rộng hơn nữa của người dân nhằm giám sát và cải thiện năng lực nhà nước.
Để làm được điều đó, cần tiếp tục đẩy mạnh minh bạch hóa bộ máy vận hành, nâng cao chất lượng giải trình với người dân thông qua trao đổi trực tiếp với cử tri, chất vấn ở các kỳ họp Quốc hội, và đẩy mạnh khả năng giám sát của truyền thông và các tổ chức xã hội. Việc gắn liền trách nhiệm của lãnh đạo với lá phiếu cử tri cũng là một yêu cầu cấp thiết. Khoảng 11% số các đại hội Đảng cấp trên trực tiếp diễn ra trước Đại hội XIII của Đảng đã thực hiện thí điểm bầu trực tiếp Bí thư tại đại hội, cho thấy Đảng đang mạnh dạn tăng cường các hình thức dân chủ trực tiếp.
Đại dịch Covid-19, nhìn một cách lạc quan, là cơ hội cho một khởi đầu mới. Nếu thực hiện cải cách với tinh thần khẩn trương như đêm trước Đổi mới vào năm 1986, chúng ta hoàn toàn có thể tận dụng nội lực và ngoại lực để đi tới tương lai bằng một nền kinh tế giàu mạnh, bền vững, và vì con người hơn.