Cầu Nôm mùa xuân

Về Cầu Nôm một sớm, mùa xuân đi theo tôi suốt con đường nhỏ hai bên trùng trùng cúc dại, ngàn cánh trắng xôn xao nhị mặt trời, cùng tôi đặt chân lên những con đường lát gạch nghiêng mềm như sóng giữa xanh ngời sắc biếc của rặng ô rô cao lút đầu người.

Đặt chân lên những nhịp cầu đá vân mây xám bạc và cùng ngẩn ngơ với mầu hoa gạo bên thềm chợ, trước cổng chùa, rừng rực cháy qua suốt giêng hai.

Sáng ấy chợ phiên. Tôi nghe tiếng chợ êm ả, lành hiền - cái âm thanh của chợ ngàn năm trước, quẩn quanh trong vòng ôm của vòm cổ thụ giao cành bóng rủ, thâm trầm trùm bóng sẫm cả bốn mùa. Chợ họp lan trên nền gạch lát. Hàng hóa từ ruộng, từ vườn vừa lên nằm đó, mỡ màng, phơi phới trong nắng, giữa gió trời. Lều quán làm gì vì chỉ hơn 8 giờ, những xe bò, những quang, những thúng lại tản ra bốn hướng, trở về với vườn tược, ruộng đồng để mình tôi đứng đây nghe gió hát, nhớ nụ cười chào khách của người phụ nữ áo khoác còn in vệt bùn - nụ cười của người làng Nôm bên thềm chợ là mùa xuân mãi mãi không già.

Sáng ấy về Nôm, bước vào chùa trên lao xao lá rụng, đứng dưới vòm cây trăm năm tuổi, nghe chuông chùa rung trong ngàn lá, nhìn qua mênh mông xanh mờ mầu khói ra dòng sông Nguyệt Đức - dòng sông bắt nguồn từ Thuận Thành - Bắc Ninh, từ khởi nguồn vẫn như dải lụa mềm âu yếm vắt ngang làng Nôm, vẫn xanh đôi bờ tre trúc dẫn đến cầu Nôm - cây cầu đá duy nhất còn lại trên đất Hưng Yên, chín nhịp, đầu rồng, vân mây, bắc ngang sông. Đầu cầu, cây gạo già đang chuyển nhựa, chỉ vài hôm nữa thôi là thắp lửa gọi người về. 

Sáng ấy về Nôm, tôi dừng chân ở cổng Cầu để chạm tay vào bốn cột đồng trụ phong lại nếp thời gian, bỏ lại sau lưng những xô bồ, ồn ã, chỉ có mình với hồ Nôm thăm thẳm mầu trời, in bóng những nhà thờ họ thâm trầm như những ngôi cổ tự. Tôi dừng lại cuối con đường phía bắc, dưới gốc đa Cô Mã gần hai trăm năm tuổi, quanh năm mầu lá sẫm ôm trùm cả đình Nôm, nghe  kể về thánh Tam Giang - một bộ tướng của Hai Bà Trưng - một vị nhiên thần có nguồn gốc nước. Tôi gặp những con người đất Cầu Nôm dẫu đã đi bốn phương vẫn giữ nguyên nét quê thuần hậu, thấy mình nhỏ bé khi được các cụ cao niên dắt tay qua từng nhà thờ họ, qua từng viên gạch đường làng đến với trường học ngày xưa còn nguyên cổng cũ và dòng tên tiếng Pháp, dẫn qua cầu đá vào tận thủy đình xem tấm bia ghi công các Bà mẹ Việt Nam Anh hùng và tên bao liệt sĩ. Tình người Cầu Nôm nồng như rượu, ấm như bàn tay nắm chặt không rời: “Đi nhé! Đi rồi lại quay về!”. 

Vâng! Chúng tôi nhất định sẽ quay về. Lần này sẽ vào Nôm từ hướng bắc, đứng ở cổng đình nhìn thấu cuối hồ để thấy rõ hơn con thuyền Cầu Nôm ngàn năm trên sóng. “Làng có hình con thuyền nên người Nôm cứ phải đi xa” - đi từ nơi đấy - từ cổng đình có bồn trạng nguyên hoa đỏ, có gò cây đa Mũ Đồng Cân, mang hình cánh diều sáo chao trong chiều gió lộng cùng ước mơ, khát vọng đem công danh, đem sự nghiệp trở về. 

Tôi cũng sẽ quay về như bao nhiêu người con xa xứ trở về tìm tình yêu gửi lại. Có ai về Cầu Nôm với chúng tôi không ? - để tận mắt thấy văn chỉ làng và nhận ra rằng vì sao, người ở xa chỉ một lần đến cũng gửi tình yêu ở lại và nuôi khát khao mong được trở về.