Chuông Ngọ Môn là chiếc chuông duy nhất được đúc đặt tại không gian cổng chính và là cổng lớn nhất trong 4 cổng của Hoàng thành Huế. Theo các chuyên gia lịch sử, dưới thời Nguyễn, chuông đồng được đúc để sử dụng gắn liền với tất cả các nghi lễ cung đình. Quốc Sử quán triều Nguyễn đã ghi chép cụ thể điển lệ việc đúc chuông, cách thức, số lượng cũng như quy cách sử dụng của từng loại chuông trong “Đại Nam thực lục” tùy theo tính chất, vị trí và nội dung của từng nghi lễ.
Cái đẹp của chuông Ngọ Môn là ở bố cục hoa văn bằng cách bổ ô làm nổi bật chủ đề của bài minh văn và các vành hoa văn chạy ngang có những mô típ đẹp. Do chất lượng hợp kim đồng tốt nên chuông còn nguyên vẹn, trải qua thời gian như được “nhuộm” với mầu nâu xanh hoài cổ.
Nhắc đến chuông đồng thời Nguyễn ở Huế không thể không nhắc đến Đại hồng chung ở Quốc tự Thiên Mụ nằm trên đồi Hà Khê hướng ra sông Hương thơ mộng. Nếu như chuông Ngọ Môn là biểu tượng vương triều Nguyễn thì chuông chùa Thiên Mụ gắn với biểu tượng của Đạo Phật thời các chúa Nguyễn.
Theo GS, TS Trịnh Sinh, nguyên cán bộ nghiên cứu Viện Khảo cổ học Việt Nam, chuông đồng giữ vai trò quan trọng trong nghệ thuật tạo hình và đời sống tôn giáo. Không chỉ mang nhiều ý nghĩa, chuông Thiên Mụ còn in đậm yếu tố mỹ thuật. Trong đời sống tôn giáo, chuông đồng được sử dụng trong các nghi lễ Phật giáo như tụng kinh, cầu siêu, lễ hội. Tiếng chuông ngân vang là lời nhắc nhở về sự thức tỉnh tâm linh, sự kết nối giữa con người và vũ trụ, giúp con người hướng về sự an lạc, giác ngộ. Về mặt nghệ thuật, chuông đồng được chạm khắc tinh xảo với các hoa văn, hình tượng Phật giáo, thể hiện trình độ kỹ thuật đúc chuông của nghệ nhân Việt Nam. Những chiếc chuông này không chỉ là sản phẩm nghệ thuật mà còn là biểu tượng văn hóa, tôn giáo độc đáo.
Tuy nhiên, việc bảo tồn và phát huy chuông đồng thời Nguyễn đang phải đối mặt nhiều thách thức. Điều này đặt ra yêu cầu cấp thiết về việc thực hiện các giải pháp bảo tồn và phát huy hiệu quả nhằm giữ gìn những giá trị văn hóa của cha ông để lại cho thế hệ mai sau.