Khi còn là một thiếu niên, ông đã nuôi dưỡng sở thích nghệ thuật, chơi piano và sớm tiếp cận với thơ ca. Những bài thơ đầu tiên của ông được đăng trên tạp chí sinh viên vào cuối những năm 1940. Theo học lịch sử văn học, lịch sử tôn giáo và tâm lý học, ông làm việc trên cương vị nhà tâm lý học.
Ông được biết đến với tư cách là dịch giả của người sáng lập chủ nghĩa siêu thực, André Breton. Năm 1954, sau khi xuất bản cuốn sách đầu tiên của mình, “17 bài thơ”, Tranströmer giành ngay được một chỗ trang trọng trên chiếu thơ Thụy Điển. Trong những năm 60, danh tiếng quốc tế của Tranströmer đã không ngừng tăng lên. Ngày nay các tác phẩm của ông đã hiện diện qua 70 ngôn ngữ.
Từ năm 1965 đến năm 2000, Tranströmer sống ở Västerås, Thụy Điển. Năm 1997, thành phố Västerås đã thành lập Giải thưởng Tranströmer, trao giải thưởng cho những bài thơ xuất sắc. Từ năm 2000, ông sống ở thành phố Stockholm thời thơ ấu của mình cho đến khi qua đời năm 2018.
Chúng tôi đã trực tiếp bút đàm bằng tiếng Anh với vợ của thi hào là cụ bà Monica Tranströmer. Họ cưới nhau năm 1958, và sinh hạ được hai cô con gái - Emma và Paula.
Vũ Tuấn Hoàng (VTH): Thưa bà Monica, chồng bà đã là một đỉnh núi cao trong nền thi ca thế giới. Điều này đã được khẳng định bởi giải thưởng Nobel về văn chương năm 2011. Nhưng theo ý kiến của tôi, thế giới ít biết đến con người đích thật “bằng xương bằng thịt” của ông. Bà có thể chấm phá vài nét, ông ấy là người thế nào trong đời thường?
Bà Monica Tranströmer: Tôi nghĩ, chồng tôi cũng là một người bình thường thôi nhưng với rất nhiều tính hài hước, dí dỏm. Và, tận tình, quan tâm nhiều đến người khác. Phần lớn cuộc đời trưởng thành của mình, ông nhà tôi làm việc như một nhà tâm lý học. Sở thích và kiến thức về âm nhạc của ông ấy rất đặc biệt và bản thân cũng là một nghệ sĩ piano nghiệp dư giỏi. Mối quan tâm cả đời của Tranströmer đối với âm nhạc, vốn đã để lại những dấu vết đáng kể trong các tác phẩm của ông. Một số nhà soạn nhạc đã lấy cảm hứng từ thơ của ông và đã chuyển thể thành âm nhạc.
VTH: Ông và bà gặp nhau lần đầu tiên trong hoàn cảnh nào? Với tư cách là một người vợ, bà đã làm những gì để chồng của mình đạt được thành công?
Bà Monica T: Chúng tôi gặp nhau qua những người bạn chung khi tôi 18 tuổi và anh ấy 26 tuổi. Anh ấy chuẩn bị xuất bản tập thơ thứ hai của mình. (Tôi đã đọc tập thơ đầu tiên của anh ấy mà tôi thấy hay như một nhà thơ Thụy Điển gạo cội tên là Harry Martinsson). Một năm sau, chúng tôi kết hôn!
Trong suốt cuộc hôn nhân dài của mình, chúng tôi ngày càng thân thiết hơn và thơ của anh ấy đối với tôi cũng vậy. Ở thế hệ của tôi, người ta rất thường thấy rằng phụ nữ chịu trách nhiệm lớn nhất đối với gia đình và nuôi dạy trẻ con. Tôi cũng vậy. Đó là cách tôi giúp nhà tôi.
VTH: Theo bà, cha mẹ của nhà thơ đã có những ảnh hưởng gì đến thiên tài của ông? Các cô con gái của bà có ai thừa hưởng được tài năng thi ca của cha không?
Bà Monica T: Bố mẹ chồng tôi ly dị nhau khi nhà tôi mới ba tuổi. Anh ấy sống với mẹ, một cô giáo. Bà đã chú ý chăm sóc tài năng của con trai ngay từ khi còn nhỏ tuổi. Tôi nghĩ, bà là một người mẹ tuyệt vời đối với nhà tôi và cũng là người mẹ chồng lý tưởng đối với tôi.
Tôi không nghĩ các con gái tôi thừa hưởng được của cha tài năng thi ca, nhưng năng khiếu âm nhạc và sự tinh tế và nhạy cảm trong quan sát cuộc đời thì có. Con gái đầu của chúng tôi là một ca sĩ, con gái thứ hai là nhiếp ảnh gia có đẳng cấp.
VTH: Bà có thể cho biết, trong những điều kiện nào thì ông ấy sáng tác tốt nhất? Bà nghĩ gì khi được tin chồng đoạt giải Nobel? Cuộc sống của bà khác nhau như thế nào trước và sau Nobel?
Bà Monica T: Với tư cách là một nhà thơ đã có tên tuổi, ông ấy rất bận bịu với các lời mời nói chuyện hay đọc thơ ở trong và ngoài nước. Nhà tôi rất đam mê du lịch. Bởi vậy, không có nhiều thời gian lắm cho viết lách. Ông ấy sáng tác tốt nhất khi sống trong một ngôi nhà nhỏ trên hòn đảo thuộc quần đảo Stockholm. Đây là món quà thừa kế của ông nội.
Tại Thụy Điển cũng đã có nhiều lần đề cử nhà tôi vào giải Nobel nhưng không ai tin rằng điều đó trở thành sự thật. Chúng tôi cũng hết sức bất ngờ khi điều này trở thành hiện thực. Tất nhiên là chúng tôi vô cùng hạnh phúc. Nhưng sau đó là một quãng đời bận rộn quá sức.
VTH: Dịch thơ không chỉ là dịch các từ mà là chuyển dịch cả một nền văn hóa. Tốt nhất là dịch từ nguyên bản, nhưng do không biết tiếng Thụy Điển, tôi dịch qua bản tiếng Anh và tiếng Nga. Theo ý bà, thơ của ông được dịch ra tiếng Anh sát với bản gốc tiếng Thụy Điển không?
Bà Monica T: Trước khi được nhận Nobel, thơ của chồng tôi đã được dịch ra nhiều thứ tiếng. Nhiều bản dịch thành công ra tiếng Anh. Theo tôi nghĩ bản dịch tiếng Anh của dịch giả Robin Fulton sát nhất với nguyên bản tiếng Thụy Điển.
VTH: Trân trọng cảm ơn bà!