Nghệ thuật tạo hình trên thổ cẩm Ê Đê

Giống như nhiều dân tộc ở Tây Nguyên, thổ cẩm người Ê Đê là sản phẩm độc đáo, thể hiện sự sáng tạo và nghệ thuật tạo hình tinh tế. Mỗi tấm thổ cẩm chứa đựng cả tâm hồn của họ.
Phụ nữ Ê Đê dệt thổ cẩm truyền thống.
Phụ nữ Ê Đê dệt thổ cẩm truyền thống.

Theo Nghệ sĩ Ưu tú Vũ Lân, nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Tây Nguyên, giống như các dân tộc thiểu số khác, phụ nữ Ê Đê tự tay dệt vải thổ cẩm để làm nên những tấm chăn, địu, váy, áo sử dụng hằng ngày, hoặc dùng làm của hồi môn khi cưới chồng, dùng làm quà tặng trong các dịp đặc biệt, thậm chí dùng làm của cải tiễn người mất.

Thổ cẩm của người Ê Đê thể hiện sự sáng tạo, có nghệ thuật tạo hình tinh tế. Để làm nên tấm thổ cẩm, trước hết phải có nguyên liệu dệt là bông gòn (tiếng Ê Đê gọi là blang). Bông sau khi thu hoạch được đánh tơi, kéo sợi rồi được nhuộm mầu bằng bùn, lá, củ, rễ hoặc vỏ cây rừng. Khi đã có những sợi chỉ mầu như ý sẽ đưa lên khung, bện sợi và dệt, tạo hình hoa văn.

Trước kia, thổ cẩm Ê Đê có hai tông mầu chủ đạo là đen và đỏ. Ngày nay, sắc màu thổ cẩm có năm mầu cơ bản gồm: hrah (đỏ), yadu (đen), cakni (vàng), apiek (xanh) và kỗ (trắng), đôi khi có cả mầu xanh lục nhưng rất hiếm. Để tạo nên sắc mầu chủ đạo trên thổ cẩm, phụ nữ Ê Đê tìm nguyên liệu tạo mầu từ các loại lá, rễ cây rừng. Vào tháng 7 hằng năm, người Ê Đê vào rừng hái lá krum già để làm thuốc nhuộm, sau đó phơi vỏ ốc suối, nung lên, ngâm thành vôi rồi trộn với nước lá krum.

Sợi nhuộm hỗn hợp này có mầu xanh. Nếu thêm vào hỗn hợp này nước lá knung giã nhỏ, nấu trong nồi chàm sẽ cho ra chất sợi mầu đen bóng mịn, giặt không phai, phơi nắng không bay mầu. Mầu đỏ được tạo từ loại vỏ cây krung già giã ra, nấu lên; mầu đỏ trên thổ cẩm Ê Đê chỉ đậm hơn mầu đất nung một chút. Sản phẩm dệt mầu đỏ được coi trọng hơn hết, những tấm thổ cẩm đỏ thường dùng để trang trí trong các lễ hội, những buổi cúng Yàng chứ không được cắt may thành những món đồ gia dụng.

Khung dệt của người Ê Đê là kiểu khung dệt Indonesien. Hình thức dệt vải của người Ê Đê được các nhà dân tộc học gọi là kỹ thuật đan luồn sợi. Để tạo hình hoa văn, người dệt sẽ thiết kế bố cục, kích cỡ họa tiết từ khi bắt đầu lên khung, nhặt sợi. Mỗi loại hoa văn có số sợi dọc, sợi ngang, cách nâng và hạ sợi khác nhau, khi dệt sẽ tạo thành các dải họa tiết nối tiếp nhau chạy dài theo chiều dọc khổ vải. Trong quá trình xếp sợi, người dệt sẽ phối mầu xen kẽ như đỏ-đen, đen-vàng, đỏ-chàm sẫm để khi dệt sẽ có những dải hoa văn nổi bật, tạo điểm nhấn cho trang phục.

Thông thường, trên một khổ vải rộng khoảng 0,9m, người Ê Đê tạo những đường viền (diềm) nhỏ ở hai đầu biên vải. Phần hoa văn chính tập trung cách biên, khoảng 20 đến 30 cm và một số đường trang trí nhỏ chạy giữa thân vải. Dải hoa văn thường chiếm diện tích từ 1/4 đến 1/3 bề mặt tấm thổ cẩm, gồm những chuỗi họa tiết như cỏ, cây, hoa, lá, chim muông, cầm thú... được cách điệu dưới dạng hình học chạy dài liên tục suốt chiều dài.

Ngoài ra, còn có các loại đường thẳng, đường dích dắc, cong, gãy song song theo dải hoa văn. Tùy vào mỗi loại trang phục, người Ê Đê sẽ có cách trang trí và sắp xếp hoa văn khác nhau. Hoa văn trang phục nam nữ, trang phục hằng ngày và dùng trong các dịp lễ đều khác nhau. Thậm chí, hoa văn trên trang phục còn thể hiện sự giàu có và quyền uy của người mặc.

Theo các nhà nghiên cứu, người Ê Đê chọn tông mầu đen hoặc chàm sẫm làm mầu nền chủ đạo trên thổ cẩm, vì họ muốn hòa mình vào thiên nhiên với nương rẫy, núi rừng, nơi họ sinh sống. Nổi trên nền tối đó là những dải mầu tương phản như đỏ, vàng, nhưng do độ mảnh mai của các đường diềm, nên sự tương phản trở nên khá chìm lắng.

Người Ê Đê có kỹ thuật kteh, được xem là đỉnh cao của nghệ thuật trang trí hoa văn trên trang phục. Trước kia, chỉ những gia đình khá giả mới dùng trang phục hoặc lễ phục có hoa văn dùng kỹ thuật này. Kteh là kỹ thuật thủ công, kết hợp sợi chỉ mầu tạo hoa văn xếp cùng hạt cườm hoặc hạt bo bo thành những dải hoa văn sít nhau, dệt sát phần biên gấu áo hoặc chân khố, chân váy. Để dệt được một tấm thổ cẩm, người phụ nữ Ê Đê phải mất một thời gian dài khoảng bốn tháng, thậm chí nhiều hơn, tùy thuộc vào kích thước và các hoa văn của tấm vải.

Ngày nay, nghề dệt thổ cẩm đang dần bị mai một, số lượng các nghệ nhân, phụ nữ Ê Đê biết dệt ngày càng ít dần, bởi tác động của sự giao thoa văn hóa, hòa nhập với xu thế hiện đại. Trước thực trạng đó, ngành văn hóa Đắk Lắk đã có nhiều nỗ lực trong việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa của nghề dệt thổ cẩm truyền thống của người Ê Đê với nhiều chương trình, dự án khác nhau.

Ở nhiều địa phương, buôn làng trong tỉnh đã thành lập các hợp tác xã, tổ hợp tác sản xuất thổ cẩm thương mại nhằm nâng cao thu nhập cho người dân, đồng thời truyền nghề cho lớp trẻ. Các hợp tác xã, tổ hợp tác đã dần bắt kịp xu thế của sự phát triển, tạo ra các sản phẩm từ vải thổ cẩm như túi, ba-lô, áo, khăn, móc gắn chìa khóa... đáp ứng nhu cầu, thị hiếu tiêu dùng, qua đó góp phần tăng thu nhập, nâng cao đời sống người dân, đồng thời bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.

Có thể bạn quan tâm

Thiếu nữ Chu Ru với sản phẩm gốm truyền thống.

Độc đáo nghề gốm của người Chu Ru

Khi nhiều buôn làng ở Tây Nguyên từng bao đời du canh, du cư thì người Chu Ru làng Krăng Gọ, xã Quảng Lập, tỉnh Lâm Đồng chỉ ở dưới chân núi T'rôm Ụ. Loại đất đặc biệt, nguồn nước trong lành và những bàn tay tài hoa ở làng quê này đã góp phần tạo ra nghề thủ công truyền thống quý giá-nghề gốm.

Ngày hội trên cao nguyên Di Linh.

Độc đáo nghi lễ của người Cơ Ho Srê

Trên cao nguyên Di Linh (Lâm Đồng) điệp trùng đồi núi, người Cơ Ho Srê từ bao đời gắn bó với cây lúa nước. “Srê” nghĩa là ruộng, nên họ tự gọi mình là “cau Cơ Ho Srê” - người Cơ Ho làm ruộng nước. So với nhiều tộc người khác, người Cơ Ho Srê sớm biết dẫn nước từ suối về ruộng, khai mở nền văn minh lúa nước giữa lòng Tây Nguyên.

Già Siu Klah (giữa) và các thành viên Câu lạc bộ cồng chiêng làng Dek. (Ảnh ĐỒNG LAI)

Người kể chuyện cồng chiêng

Giữa những ngọn đồi trập trùng của xã Ia Hrú, tỉnh Gia Lai, có người đàn ông lặng lẽ nhưng bền bỉ gìn giữ một phần hồn cốt của văn hóa Tây Nguyên. Ông là già làng Siu Klah, người Jrai, sống tại làng Dek.

Ném còn thường được tổ chức vào dịp Tết Nguyên đán, lễ hội Xuân.

Biểu tượng văn hóa dân tộc Tày ở Tây Nguyên

Một trong những giá trị tiêu biểu, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc Tày tại xã biên giới Ia Đal, tỉnh Quảng Ngãi là trò chơi ném còn, (tiếng Tày gọi là "tung còn"), trò chơi dân gian truyền thống có từ lâu đời, phổ biến trong các lễ hội Xuân của người Tày, thể hiện ước vọng sinh sôi nảy nở, mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt.

Thiếu nữ Cơ Ho với gùi hoa truyền thống.

Gùi hoa - Biểu tượng văn hóa người Cơ Ho

“Đung đưa, đung đưa/Chiếc gùi đung đưa…”, âm điệu ca khúc H'Zen lên rẫy của nhạc sĩ Nguyễn Cường, khiến người nghe liên tưởng đến cô gái miền sơn cước duyên dáng cùng nhịp gùi mỗi sớm mai lên rẫy.

Chủ lễ thực hiện nghi thức tưới rượu cần lên cây Blang và các vật cúng tế trong Lễ Tăm Blang m’prang bon của người Mnông Pré, Nam Nung, Lâm Đồng.

Lễ Tăm Blang m’prang bon của người Mnông

Theo ấn định thời gian, cứ từ 3 đến 5 năm, đồng bào Mnông Pré ở xã Nam Nung (Lâm Đồng) lại cùng nhau tổ chức Lễ Tăm Blang m’prang bon (Lễ rào bon, trồng cây Blang) để cảm tạ thần Blang đã bảo vệ bon làng, đồng thời cầu mong mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt bội thu.

Bếp lửa trong không gian nhà dài người Mạ ở Lâm Đồng.

Bếp lửa trong đời sống người Mạ

Giữa đại ngàn nam Tây Nguyên vẫn tồn tại ngôi nhà dài truyền thống của người Mạ, tại khu vực Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng. Bà Ka Dít đã gần 70 mùa rẫy là chủ nhân cũng không nhớ nổi ngôi nhà khai sinh từ lúc nào.

Phục dựng nghi thức Lễ gọi hồn lúa của người M’nông Gar tại Liên hoan Văn hóa cồng chiêng tỉnh Đắk Lắk lần thứ III năm 2024.

Lễ gọi hồn lúa của người M’nông Gar

Cũng như hầu hết các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, người Mnông Gar ở tỉnh Đắk Lắk tin rằng, trong hạt lúa có linh hồn, khi thần lúa ở lại với gia đình thì mùa màng bội thu, nếu vi phạm các điều kiêng kỵ thì thần lúa sẽ bay đi, làm cho lúa xấu, bị sâu bọ, mất mùa…

Đội nghệ nhân dân tộc Hrê, thôn Vi Pờ Ê, xã Kon Plông tham gia biểu diễn tại một sự kiện văn hóa.

Say đắm điệu Ta lêu trên đỉnh đèo Vi Ô Lắc

Trên miền cao nguyên Kon Plông hùng vĩ, điệu Ta lêu của người Hrê ngân vang, hòa quyện vào không gian bao la của núi rừng Trường Sơn Tây. Giai điệu ấy ghi dấu ấn về một tộc người với văn hóa độc đáo, trở thành minh chứng sống động cho sự giao thoa giữa thiên nhiên và con người, giữa truyền thống và hiện đại.

Ngôi nhà sàn cổ 140 tuổi của "Vua săn voi" Y Thu Knul ở Bản Đôn, xã Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk.

Độc đáo nhà sàn cổ của "Vua voi"

Ngôi nhà sàn cổ của “Vua voi” Y Thu Knul (1828 -1938), người được mệnh danh là ông tổ của nghề săn và thuần dưỡng voi rừng nằm tại Bản Đôn, xã biên giới Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk. Đây là một điểm tham quan không thể bỏ qua đối với du khách khi tới Buôn Đôn huyền thoại với nghề săn bắt và thuần dưỡng voi rừng.

Hấp dẫn ẩm thực của người Cơ Ho dưới chân núi Lang Biang.

Hương vị núi rừng dưới chân núi Lang Biang

Chúng tôi đến vùng đất dưới chân núi Lang Biang, dạo chơi trên các buôn làng Đăng Gia, Bon Đưng, Bnơh… trước thuộc huyện Lạc Dương, tỉnh Lâm Đồng; giờ là các tổ dân phố thuộc phường Lang Biang-Đà Lạt và may mắn được hòa vào không gian Hội thi ẩm thực và rượu cần Lang Biang.

Những mẻ bánh tro mới ra lò của đồng bào dân tộc Nùng tại Tây Nguyên.

Dẻo thơm bánh tro

Bánh tro là món ăn truyền thống được đồng bào dân tộc Nùng ở thôn Đăk Xuân, xã Đăk Ui, tỉnh Quảng Ngãi lưu giữ và truyền lại từ đời này sang đời khác. Không cầu kỳ về hình thức, cũng không có nhân như nhiều loại bánh nếp khác, nhưng bánh tro lại hấp dẫn bởi hương vị độc đáo, cách chế biến kỳ công và nét văn hóa ẩm thực rất riêng

Nghệ nhân người Chu Ru truyền dạy cách thổi kèn bầu cho lớp trẻ.

Kèn bầu của người Chu Ru

Cùng với các nhạc cụ như trống, đồng la, r’tông, k’wao… người Chu Ru ở Lâm Đồng còn có kèn bầu (rơkel) với điệu thức khoan thai, tỉ tê như chuyển tải nỗi lòng của người chơi, hay chất chứa khát vọng của buôn làng hòa vào bản giao hưởng giữa đại ngàn.

Nghệ nhân Ama Hloan ở buôn Akô Dhông, phường Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk giới thiệu nhạc cụ Đinh Năm với du khách.

Đinh Năm - nhạc cụ độc đáo của người Ê Đê

Trong các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, người Ê Đê có kho tàng âm nhạc phát triển, giàu bản sắc, đa dạng với nhiều hình thức diễn xướng. Đặc biệt, nhạc cụ của người Ê Đê rất phong phú như cồng, chiêng, trống, sáo vỗ, khèn, đàn…; trong đó, Đinh Năm là một loại nhạc cụ độc đáo, được nhiều người yêu thích.

Nghi lễ đón khách của bon chủ nhà mở đầu cho Lễ mừng mùa của đồng bào M'nông ở xã Quảng Trực.

Lễ mừng mùa của người M'nông ở Quảng Trực

Sau khi kết thúc mùa vụ, người M'nông ở xã Quảng Trực (tỉnh Lâm Đồng) tổ chức Lễ mừng mùa để tạ ơn trời đất, các vị thần linh đã giúp cho mưa thuận gió hòa, cây cối tốt tươi, mùa màng bội thu. Đây cũng là dịp để người M'nông sum họp, gắn kết và lan tỏa những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc mình.

Đồng bào dân tộc Ha Lăng phục dựng lễ Pơ Jrao.

Pơ Jrao - Lễ cúng mừng lúa thóc đầy kho

Giữa đại ngàn Tây Nguyên hùng vĩ, nơi chân dãy Sạc Ly sừng sững, người Ha Lăng ở xã Rờ Kơi, tỉnh Quảng Ngãi mãi lưu giữ những giá trị văn hóa truyền thống quý báu của dân tộc mình.

Di tích lịch sử Sở Trà Bu Prăng.

Độc đáo di tích lịch sử Sở Trà Bu Prăng

Di tích lịch sử Sở Trà Bu Prăng, nằm trong khuôn viên của Trung đoàn 726, xã Quảng Trực (tỉnh Lâm Đồng), là một ngôi nhà cổ, được xây dựng theo lối kiến trúc Pháp. Theo các chuyên gia, nhà nghiên cứu: Trước kia, nơi đây là đồn điền Sở Trà Bu Prăng do người Pháp xây dựng.

Cây Kơ nia trong khuôn viên bảo tàng tỉnh Gia Lai (cũ).

Đi tìm Bóng cây Kơ nia

Cây Kơ nia (có nơi gọi là cây cầy, cây cốc) có tên khoa học là Irvingia malayana, có nguồn gốc từ châu Phi và Đông Nam Á.

Món ăn ếch nấu lồ ô thường được người Giẻ Triêng nấu trên bếp lửa.

Đặc sản truyền thống của người Giẻ Triêng

Mang đậm hương vị núi rừng, món ếch nấu lồ ô là một trong những nét ẩm thực truyền thống độc đáo của đồng bào Giẻ Triêng tại xã Dục Nông, tỉnh Quảng Ngãi mới. Món ăn này còn thể hiện lối sống gắn bó với thiên nhiên và sự sáng tạo trong chế biến.

Sưu tập Đàn đá Đắk Sơn đang được trưng bày, lưu giữ, bảo vệ, bảo quản tốt theo quy trình, quy định tại Bảo tàng tỉnh Đắk Nông.

Đàn đá Đắk Sơn - Bảo vật mang giá trị đặc biệt về lịch sử, văn hóa

Đàn đá Đắk Sơn là hiện vật gốc có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng, mang tính độc bản, độc đáo điển hình. Với niên đại xác thực, được chế tác tại chỗ và có nguồn gốc bản địa, đàn đá không chỉ sở hữu giá trị lịch sử và văn hóa sâu sắc mà còn là một sưu tập nhạc cụ tiêu biểu và cổ xưa nhất.

Phụ nữ Xơ Đăng chuẩn bị nguyên liệu để chế biến món Păng Chôh.

Gùi măng trên vai, hương rừng trong bếp

Giữa những cánh rừng bạt ngàn của xã Đăk Ui (huyện Đăk Hà, tỉnh Kon Tum), nơi người Xơ Đăng sinh sống bao đời, có một món ăn mộc mạc nhưng đầy sức hút, không chỉ níu giữ hương vị núi rừng mà còn gói trọn cả một phần ký ức, nếp sống và tâm hồn bao thế hệ. Người Xơ Đăng gọi nó là “Păng Chôh”, có nghĩa là măng chua.

Người phụ nữ Ê Đê bên khung dệt vải thổ cẩm.

Nghệ thuật trang trí trên thổ cẩm của người Ê Đê

Hầu hết đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên đều có nghề dệt thổ cẩm, nhưng nghề dệt thổ cẩm truyền thống của người Ê Đê có nét độc đáo và riêng biệt, chứa đựng những giá trị nghệ thuật, lịch sử, văn hóa sâu sắc.

Nghi thức trong lễ báo hiếu của dân tộc Mnông ở huyện Đam Rông, tỉnh Lâm Đồng.

Nét đẹp lễ báo hiếu của người Mnông

Lễ báo hiếu là dịp để người Mnông thể hiện lòng tri ân sâu sắc, sự biết ơn đối với công lao sinh dưỡng, giáo dục của đấng sinh thành. Đây cũng là dịp gắn kết tình thân giữa các thành viên trong gia đình, những người đồng tộc và củng cố mối quan hệ trong cộng đồng người Mnông.