Không phải ngẫu nhiên mà dự thảo Báo cáo Chính trị trình Đại hội XIV của Đảng xác định lý luận về đường lối đổi mới là một bộ phận cấu thành nền tảng tư tưởng của Đảng. Đó là kết tinh của gần bốn thập niên tổng kết thực tiễn, chiêm nghiệm lý luận, hun đúc từ những thành công và cả những thử thách khắc nghiệt của thực tiễn.
Khi Đại hội VI năm 1986 mở ra chặng đường đổi mới, Đảng ta đã thể hiện bản lĩnh vững vàng, tầm nhìn xa rộng, nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật và kiên định đổi mới. Đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu, mà là đổi mới tư duy để đi đến mục tiêu xã hội chủ nghĩa bằng con đường phù hợp hơn, sáng tạo hơn. Từ bước đi đầu tiên ấy, Đảng ta đã vận dụng và phát triển sáng tạo các nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Những khái niệm “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”, “nền dân chủ xã hội chủ nghĩa”, từng gây nhiều tranh luận, từng bị các thế lực thù địch xuyên tạc, chống phá, giờ đây đã trở thành trụ cột lý luận và thực tiễn, góp phần làm giàu thêm kho tàng lý luận cách mạng thế giới.
Việc khẳng định lý luận về đường lối đổi mới là một bộ phận cấu thành nền tảng tư tưởng không chỉ là bước tiến về nhận thức, mà còn là biểu hiện của bản lĩnh, trí tuệ và sự trưởng thành về tư duy lý luận của Đảng ta. Từ chỗ vận dụng, Đảng đã chủ động phát triển và sáng tạo lý luận. Đó là bước trưởng thành vượt bậc. Có thể coi là một bước nhảy về tư duy biện chứng, về năng lực tổng kết thực tiễn.
Đổi mới, ngay từ tên gọi, đã mang trong mình tinh thần phản giáo điều, chống rập khuôn. Nếu giáo điều giống như mặc chiếc áo người khác may cho mình, thì đổi mới là tự thiết kế con đường đi bằng chính trí tuệ, kinh nghiệm và nhu cầu của dân tộc mình. Chính vì vậy, vào những năm 90 của thế kỷ XX, khi một số nước xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng, sụp đổ, thì Việt Nam vẫn kiên định con đường đã chọn.
Qua thực tiễn, bước đầu có thể tổng kết về đường lối đổi mới của Đảng ta với những đặc trưng chủ yếu: Thống nhất giữa tính khoa học và tính cách mạng; thống nhất giữa kiên định và bổ sung, phát triển, gắn với thực tiễn đất nước, khu vực và thế giới. Sự thống nhất đó là phù hợp quy luật, bởi lẽ, khoa học và cách mạng luôn đòi hỏi phải kiên định và bổ sung, phát triển sáng tạo, để không bị cuốn theo chủ nghĩa xét lại, giáo điều.
Bước vào kỷ nguyên mới xây dựng đất nước phát triển hùng cường, thịnh vượng, đất nước ta đang đứng trước một kỷ nguyên phát triển mới, với cỗ máy vận hành của xã hội ngày càng gọn nhẹ, thông minh, hiệu năng cao nhờ tinh gọn bộ máy trong hệ thống chính trị, nhờ sức mạnh kỳ diệu của khoa học, công nghệ và chuyển đổi số. Đây được coi là phép thử lớn cho năng lực vận dụng lý luận về đường lối đổi mới trong điều kiện mới.
Vận dụng lý luận đổi mới trong bối cảnh hiện nay cần tập trung vào ba trụ cột lớn. Đó là, phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo là động lực trung tâm. Ở đây, có ý kiến cho rằng, đổi mới sáng tạo là sự trùng nghĩa. Không phải vậy. Đây là sự kết hợp chặt chẽ, nhuần nhuyễn giữa tư duy sáng tạo và hành động đổi mới. Sáng tạo là nguồn lực trí tuệ - nơi hình thành ý tưởng mới, còn đổi mới là quá trình hiện thực hóa những ý tưởng ấy trong đời sống.
Khoa học, công nghệ được ví như động cơ chính của cỗ máy phát triển hiện đại. Đổi mới phải tạo không gian để các nhà khoa học, doanh nhân, trí thức được thử nghiệm và được sáng tạo. Nhà nước phải kiến tạo chính sách mở, cởi trói cho tư duy, bảo vệ quyền sáng tạo, khuyến khích hợp tác công-tư, và có khi phải chấp nhận “sự rủi ro” của sáng tạo để đi đến mục tiêu cuối cùng bằng niềm tin chính trị và thể chế thông thoáng, không bị tắc nghẽn.
Chuyển đổi số không chỉ là chuyện công nghệ, mà là cuộc chuyển đổi cách sống, cách nghĩ, cách quản trị xã hội. Tư tưởng của Bác Hồ “xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân” mãi là kim chỉ nam cho mọi hành động. Suy đến cùng, công nghệ phải vì con người, chứ không để con người thành công cụ của công nghệ. Đó chính là vận dụng sáng tạo lý luận đổi mới, kết hợp quy luật phát triển hiện đại với bản sắc nhân văn Việt Nam.
Niềm tin vào quá trình tiếp tục đổi mới ở tầm cao hơn là tài sản vô giá, là “dầu bôi trơn” cho cỗ máy phát triển. Trong khi cả nước đồng lòng tiến bước, vẫn có những kẻ do dự, chần chừ, thậm chí chống phá, tìm cách “rắc cát vào cỗ máy” đang vận hành trơn tru, hoặc ngược lại là “rắc hoa lên vũng lầy” để ngụy tạo, che chắn. Họ xuyên tạc rằng đổi mới là tư bản hóa, rằng phát triển kinh tế thị trường là xa rời lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Nhưng chính thực tiễn đã bác bỏ mọi luận điệu ấy: Đổi mới không phải là thay hướng đổi dòng, mà là làm cho con đường cách mạng trở nên hiệu quả hơn, gần dân hơn, nhân văn hơn.
Do đó, bảo vệ lý luận về đường lối đổi mới cũng chính là bảo vệ nền tảng tư tưởng, bảo vệ niềm tin của nhân dân vào Đảng, vào con đường xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đã chọn. Bảo vệ lý luận về đường lối đổi mới đòi hỏi sự trung thực, dũng cảm, như cách nói của người xưa “tiến không cầu danh, lui không tránh tội”, nói giữa dạ mình để bảo vệ chân lý - chân lý Việt Nam qua mọi thời đại: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”.
Khi Đại hội XIV mở ra, một giai đoạn phát triển mới của đất nước cũng bắt đầu. Nhìn lại chặng đường đổi mới, chúng ta càng thấy rõ một quy luật bất biến: càng kiên định nền tảng tư tưởng, càng phải tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm trong bài viết “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, yêu cầu cấp bách của giai đoạn cách mạng mới” (9/2024) đã chỉ rõ những hạn chế, thiếu sót: “Một số chủ trương, định hướng lớn của Đảng chưa được thể chế kịp thời, đầy đủ hoặc đã thể chế nhưng tính khả thi không cao. Mô hình tổng thể của hệ thống chính trị chưa hoàn thiện; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ công tác của tổ chức, cá nhân, người đứng đầu có nội dung chưa rõ; phân cấp, phân quyền chưa mạnh. Mô hình tổ chức của Đảng và hệ thống chính trị vẫn còn những bất cập, làm cho ranh giới giữa lãnh đạo và quản lý khó phân định, dễ dẫn đến bao biện, làm thay hoặc buông lỏng vai trò lãnh đạo của Đảng”.
Đối với thế hệ trẻ, để có được nguồn sinh lực mới trong thời đại mới cần một tư duy đột phá bắt nhịp với thời đại. Đổi mới trong quản trị, đổi mới trong sáng tạo, đổi mới trong lòng mỗi người Việt Nam yêu nước. Đổi mới không dừng lại, vì cuộc sống là một dòng chảy không ngừng nghỉ. Đổi mới không phải khẩu hiệu, mà là một hành động kiên trì, bền bỉ, thắp sáng trí tuệ, nuôi dưỡng khát vọng. Và đổi mới, không ngừng đổi mới, hơn bao giờ hết, chính là chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước ta trước Dân tộc, trước Nhân dân. Lý luận về đường lối đổi mới không chỉ là kết quả của một quá trình tư duy chính trị, mà là một di sản sống của dân tộc Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh. Nó là ngọn đuốc soi đường, là niềm tin để dân tộc vượt qua mọi thử thách, là bản lĩnh để Việt Nam tiến nhanh, tiến vững chắc trong kỷ nguyên số.
Lựa chọn con đường cách mạng không chỉ là quyết định tất yếu của lịch sử dân tộc, mà còn là sự lựa chọn đúng đắn, phù hợp với quy luật vận động và xu thế phát triển của thời đại. Trước thềm Đại hội XIV của Đảng, mỗi người dân Việt Nam có quyền tự hào rằng, chúng ta không chỉ đang viết tiếp lịch sử đổi mới, mà còn đang làm giàu thêm cho lý luận cách mạng bằng chính những thành quả của mình. Cỗ máy đổi mới đã khởi hành, đã vượt núi băng đèo, tạo nên xung lực mới và giờ đây, với bàn tay, trí tuệ và niềm tin lớn của đồng bào cả nước, sẽ tiếp tục vận hành, mạnh mẽ hơn, thông minh hơn, hiệu năng hơn, đưa đất nước ta tiến bước vững vàng trên đường tới vinh quang.