Vấn đề bảo vệ môi trường, vì thế không chỉ là một nội dung trong chương trình nghị sự, mà thật sự đang là câu chuyện sinh tử, là sự sống và sinh kế của hàng triệu người dân, ảnh hưởng trực tiếp đến tốc độ phát triển và chất lượng sống của toàn xã hội.
Khoảng xám giữa những gam màu sáng
Phiên thảo luận tại nghị trường Kỳ họp thứ mười, Quốc hội khóa XV về Báo cáo của Đoàn Giám sát và dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về kết quả giám sát chuyên đề “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường kể từ khi Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 có hiệu lực thi hành” thu hút sự quan tâm của đông đảo người dân trong cả nước. Đoàn giám sát ghi nhận, việc ban hành và thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường (BVMT) kể từ khi Luật này có hiệu lực đã đạt được nhiều kết quả tích cực, quan trọng, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu, chỉ tiêu phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại, an sinh xã hội và hội nhập quốc tế.
Thế nhưng, vì sao Luật Bảo vệ môi trường 2020 với nhiều điểm mới tiến bộ và triển khai sâu rộng, nhưng những bất cập, tồn tại vẫn còn dai dẳng, vấn nạn môi trường ngày càng trở nên phức tạp, thậm chí trầm trọng hơn? Phải chăng, giữa ý chí trên văn bản và hành động trong thực tế đang tồn tại một khoảng cách không dễ gì có thể sớm lấp đầy?
Thực tiễn cho thấy, giữa những gam màu sáng vẫn lộ rõ khoảng xám: môi trường nhiều nơi xuống cấp, ô nhiễm không khí, nguồn nước diễn biến phức tạp. Lấy dẫn chứng, đại biểu Quốc hội (ĐBQH) Thạch Phước Bình (Vĩnh Long) thẳng thắn chỉ ra: “Công tác kiểm soát ô nhiễm môi trường có tiến bộ nhưng chưa bền vững, tỷ lệ thu gom rác đô thị 97%, nhưng chỉ 18% nước thải được xử lý, gần 60% rác thải vẫn chôn lấp, chủ yếu ở nông thôn và đô thị nhỏ. Nhiều bãi rác tồn lưu hàng chục năm như Nam Sơn (Hà Nội), Khánh Sơn (Đà Nẵng), Tân Long (Đồng Tháp) vẫn là những điểm nóng môi trường”.
Điểm chung của những bất cập được nhiều ĐBQH nhận định: “nút thắt” chính là ở khâu thực thi. Nhiều chủ trương lớn đã “thông suốt” từ Trung ương nhưng khi về đến địa phương lại bị ngưng trệ, trễ nhịp, hoặc rơi vào tình trạng “thiếu người, thiếu tiền, thiếu cả trách nhiệm”.
Tháo gỡ “điểm nghẽn” từ cơ sở
Luật Bảo vệ môi trường 2020 đã phân cấp mạnh cho địa phương: từ việc cấp phép môi trường, quản lý chất thải đến giám sát ô nhiễm, nhưng năng lực thực thi ở nhiều nơi còn chưa bảo đảm tính chuyên nghiệp, hiện đại; cán bộ cơ sở còn thiếu đào tạo bài bản. Phân tích vấn đề này, ĐBQH Nguyễn Thị Thu Hà (Quảng Ninh) nêu rõ: “Điều đó đòi hỏi chúng ta cần phải nâng tầm công tác BVMT, hoàn thiện cơ chế, chính sách trong giai đoạn tới”.
Không ít địa phương còn giữ tư duy “phát triển kinh tế trước, môi trường tính sau”, hạ tầng kỹ thuật môi trường xuống cấp nghiêm trọng vẫn đang là nỗi lo, trăn trở. Báo cáo giám sát chỉ rõ có hiện tượng một số địa phương còn ưu tiên thu hút đầu tư mà xem nhẹ BVMT. Hệ quả là nhiều dự án gây ô nhiễm chậm bị xử lý, việc phân loại rác tại nguồn triển khai hình thức, thiếu giám sát, “chưa thật sự quyết liệt”: chỉ khoảng 18% tổng lượng nước thải đô thị được thu gom, xử lý, còn lại chủ yếu xả thẳng ra môi trường. Trong khi đó, công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm chưa đáp ứng yêu cầu, chế tài đối với một số hành vi gây ô nhiễm môi trường còn thấp, chưa đủ tính răn đe và chính người dân gánh chịu hệ lụy.
ĐBQH Chu Thị Hồng Thái (Lạng Sơn) cho biết: “Trên thực tế, việc phân loại rác thải tại nguồn đã được nhiều địa phương triển khai khá quyết liệt. Tuy nhiên, trong quá trình xử lý, phần lớn vẫn được thu gom chung, dẫn đến việc người dân dù có phân loại rác từ nguồn cũng không phát huy được ý nghĩa và hiệu quả thực tế. Nhiều doanh nghiệp, đơn vị thu gom rác thải còn hạn chế về đầu tư công nghệ, kỹ thuật”. Thực tế này phản ánh bất cập giữa chính sách tiên tiến và năng lực thực hiện của cơ sở. Khi hạ tầng xử lý lạc hậu, mọi nỗ lực phân loại, tái chế, hay phát triển kinh tế tuần hoàn đều chỉ dừng trên giấy. Một số đại biểu cho rằng nguyên tắc “người gây ô nhiễm, sự cố và suy thoái môi trường phải chi trả, bồi thường thiệt hại, khắc phục, xử lý” chưa được áp dụng triệt để. Thậm chí, có đại biểu thẳng thắn đề nghị công khai danh sách 38 cơ sở gây ô nhiễm nghiêm trọng chưa được xử lý dứt điểm - coi đó là “thước đo trách nhiệm” của chính quyền sở tại.
Một điểm yếu cố hữu là thiếu công khai thông tin môi trường. Ở cấp xã, phường, thông tin về chất lượng nước, không khí, rác thải gần như không được cập nhật công khai. Khó khăn hiện nay là nhiều địa phương chưa có cổng dữ liệu môi trường, khiến việc giám sát độc lập của người dân, Mặt trận Tổ quốc hay các tổ chức xã hội bị hạn chế.
Một trong những giải pháp Bộ trưởng Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng trong phần giải trình đề cập là xây dựng hệ thống sàn giao dịch carbon trong nước vận hành thử nghiệm ngay từ cuối năm 2025; vận hành hệ thống đăng ký quốc gia về hạn ngạch phát thải khí nhà kính và tín chỉ carbon kết nối với quốc tế; thiết lập hệ thống báo cáo kiểm kê khí nhà kính trực tuyến phục vụ cho doanh nghiệp và hoàn thành vận hành hệ thống thông tin cơ sở dữ liệu môi trường quốc gia bảo đảm tích hợp, kết nối liên thông với cơ sở dữ liệu quốc gia và chia sẻ từ Trung ương cho đến xã theo thời gian thực.
Tuân thủ nghiêm các quy định
Có ý kiến đề nghị đưa chỉ tiêu môi trường vào đánh giá năng lực người đứng đầu “xem đây là tiêu chí bắt buộc trong đánh giá đầu tư công và điều hành kinh tế-xã hội”. Khi tiêu chí xanh được gắn với năng lực cán bộ, trách nhiệm sẽ trở nên hữu hình, tránh tình trạng “ai cũng có phần trách nhiệm nhưng không ai chịu trách nhiệm chính”. Đồng thời, việc công khai danh sách cơ sở ô nhiễm, kết quả kiểm tra và tiến độ xử lý cần trở thành quy định bắt buộc. Minh bạch thông tin không chỉ là công cụ quản lý, mà còn là áp lực tích cực buộc chính quyền địa phương phải hành động.
Một trong những kiến nghị của Đoàn giám sát là “tăng cường và đa dạng hóa nguồn lực cho BVMT”. Các địa phương cần được phân bổ ngân sách tương xứng với nhiệm vụ, bảo đảm chi cho môi trường “không thấp hơn 1% tổng chi Ngân sách Nhà nước” và tăng dần qua từng năm. Một số ĐBQH đề xuất Quốc hội “nâng mức tối thiểu lên 1,2% tổng chi Ngân sách Nhà nước từ năm 2027”, nhằm giúp địa phương có nguồn lực đầu tư hạ tầng xử lý rác, nước thải. Cùng với đó, bộ máy quản lý phải được kiện toàn theo mô hình chính quyền địa phương hai cấp (tỉnh-xã), có cán bộ chuyên trách về BVMT trong từng ngành, từng đơn vị.
Đưa vào vận hành hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu môi trường quốc gia, tích hợp bản đồ chất lượng môi trường công khai cho cộng đồng là yêu cầu cấp thiết. Địa phương phải đóng vai trò chủ lực trong cập nhật dữ liệu, triển khai các trạm quan trắc tự động và chia sẻ thông tin thời gian thực về chất lượng không khí, nước, chất thải. Khi đó, người dân có thể giám sát chính quyền, báo chí có cơ sở phản ánh kịp thời, còn doanh nghiệp phải tuân thủ minh bạch các quy định.
BVMT là trách nhiệm của toàn xã hội, do đó phong trào toàn dân tham gia BVMT, giảm thiểu phát sinh, phân loại, xử lý rác thải cần được phát động, triển khai mạnh mẽ hơn ở địa bàn cơ sở, cụ thể hóa thành những phong trào tự quản môi trường, mô hình xã-phường xanh, hoặc hợp tác xã tái chế... Đồng thời, chính quyền địa phương cần chủ động xử lý dứt điểm các “điểm nóng” ô nhiễm, đặc biệt là ở làng nghề và cụm công nghiệp xen lẫn dân cư. Việc di dời, khắc phục và cưỡng chế cơ sở gây ô nhiễm phải thực hiện theo đúng luật, không né tránh vì lợi ích cục bộ.
Phó Chủ tịch Quốc hội Lê Minh Hoan đề nghị “Chính phủ lưu ý chỉ đạo sát sao và đúng thời hạn việc ban hành, thực thi các văn bản cụ thể hóa Luật Bảo vệ môi trường và các luật có liên quan theo Nghị quyết của Quốc hội. Công tác triển khai một số chính sách trong Luật cần nhanh chóng xác thực, phát huy hiệu quả trên thực tế”. Và khi mỗi địa phương coi BVMT là nền tảng quan trọng để phát triển bền vững, thì ý chí, quyết tâm sẽ biến thành hành động cụ thể, thiết thực, lan tỏa đến cộng đồng và từng hộ gia đình.
Sau gần 5 năm thi hành Luật Bảo vệ môi trường 2020, trên cả nước đã ban hành hơn 500 văn bản hướng dẫn, trong đó hơn 30 văn bản cấp Chính phủ, bộ, ngành - góp phần cụ thể hóa quan điểm phát triển bền vững trên cả ba trụ cột: kinh tế, xã hội và môi trường.