Tại cuộc họp, Viện trưởng Chiến lược và Khoa học pháp lý Nguyễn Văn Cương đã thay mặt đơn vị thường trực báo cáo kết quả nghiên cứu, xây dựng Đề án đến thời điểm hiện tại.
Phát biểu tại cuộc họp, TS Dương Thị Thanh Mai, nguyên Viện trưởng Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp cho rằng, việc hoàn thiện cấu trúc hệ thống pháp luật phải được nhìn nhận như một quá trình kế thừa, tiếp thu và phát triển, bảo đảm thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.
Theo bà Mai, nhiều bộ, ngành đã bám sát yêu cầu, chủ động nghiên cứu và đề xuất cụ thể những thay đổi cần thiết trong cấu trúc pháp luật thuộc lĩnh vực quản lý. Tuy nhiên, vẫn còn một số bộ, ngành mới dừng ở việc nhắc lại nguyên lý chung mà chưa đưa ra bất kỳ thay đổi hay kiến nghị cấu trúc rõ ràng. TS Dương Thị Thanh Mai nhấn mạnh, yêu cầu cấp bách của Đề án là phải áp dụng nhất quán các nguyên tắc đã được xác lập trong lý luận; đồng thời phải chỉ rõ luật ngành nào đang thiếu, cũng như những khoảng trống cấu trúc cần bổ sung, hoàn thiện.
Dẫn thí dụ điển hình là lĩnh vực hành chính-lĩnh vực rộng lớn, phức tạp nhưng Việt Nam lại chưa có một đạo luật hành chính mang tính trụ cột để làm cơ sở chung cho hàng loạt luật chuyên ngành, bà Mai cho rằng, không nên e ngại việc bổ sung luật mới nếu đó là những luật phục vụ trực tiếp cho việc hoàn thiện cấu trúc hệ thống pháp luật.
Nêu ý kiến tại cuộc họp, Thứ trưởng Tư pháp Đặng Hoàng Oanh nhấn mạnh, điều quan trọng là nhìn thẳng vào các nhóm luật đang đóng vai trò trụ cột để "gia cố" những nguyên tắc cốt lõi, đặc biệt với pháp luật công-bao gồm các đạo luật điều chỉnh quan hệ giữa Nhà nước và công dân, lợi ích công cộng và trật tự xã hội.
Thứ trưởng Đặng Hoàng Oanh cho rằng, hệ thống pháp luật công không quá nhiều nhưng phải đủ mạnh, nhất là các lĩnh vực như Hiến pháp, Luật Hành chính, Bộ luật Hình sự và Bộ luật Tố tụng hình sự. Những đạo luật mang tính nền tảng này, nếu còn thiếu hoặc chưa đầy đủ, cần được rà soát và bổ sung để bảo đảm vai trò điều chỉnh những nguyên tắc cơ bản của Nhà nước pháp quyền.
Với luật tư, Thứ trưởng đề nghị xác định những đạo luật rường cột như Bộ luật Dân sự, Bộ luật Lao động hay Luật Hôn nhân và gia đình, sau đó rà soát toàn bộ các luật liên quan để bảo đảm mỗi nhóm luật phản ánh đúng bản chất điều chỉnh của pháp luật tư. Thứ trưởng cho rằng việc hoàn thiện hệ thống pháp luật phải hướng tới một hệ thống pháp luật "gọn nhưng không giản lược", có trật tự, có xương sống.
Một vấn đề lớn khác được Thứ trưởng Đặng Hoàng Oanh đặc biệt lưu ý là sự thiếu thống nhất giữa chế tài trong xử lý vi phạm hành chính và chế tài hình sự. Theo đó, mô hình pháp luật hiện hành khiến Bộ luật Hình sự liên tục phải sửa đổi để bổ sung tội phạm mới, trong khi nhiều nước áp dụng phương thức linh hoạt hơn: tội phạm trong các lĩnh vực cụ thể được dẫn chiếu và quy định ngay trong luật chuyên ngành, còn luật xử lý vi phạm hành chính chỉ xác định hình thức và khung xử phạt. Việt Nam đã có một số tín hiệu tích cực theo hướng này, như Luật Bảo vệ môi trường và Luật An ninh mạng, nhưng cần đẩy mạnh để khắc phục triệt để khoảng trống và bất cập hiện nay.
Sau khi lắng nghe các ý kiến tại cuộc họp, Bộ trưởng Tư pháp Nguyễn Hải Ninh nhấn mạnh, yêu cầu phải tiếp tục hoàn thiện lại kết cấu của dự thảo Đề án theo hướng chặt chẽ, logic hơn. Các khái niệm, nội hàm phải được xác định rõ để bảo đảm tính nhất quán khi đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp.
Bộ trưởng yêu cầu, cách đánh giá thực trạng cũng phải bám sát từng cấu trúc của hệ thống pháp luật: Cấu trúc hình thức có những thành tố nào, thực trạng ra sao, đạt và chưa đạt ở đâu; tương tự đối với cấu trúc nội dung, nền tảng và cơ chế vận hành. Các giải pháp sau đó phải bám đúng từng cấu trúc tương ứng.
Bộ trưởng gợi ý phân nhóm kinh nghiệm quốc tế thành các giá trị chung của các hệ thống pháp luật hiện đại và các hướng tiếp cận phù hợp với kiến nghị của dự thảo Đề án, trong đó lưu ý vai trò của án lệ, cũng như sự gia tăng của các luật thí điểm trong điều kiện phát triển kinh tế – xã hội biến động mạnh.
Bộ trưởng đề nghị đưa vào sơ đồ cấu trúc hệ thống pháp luật với bốn cấu trúc nền tảng - hình thức - nội dung - cơ chế vận hành để tạo tính trực quan và tăng khả năng liên kết giữa các phần. Đồng thời yêu cầu làm rõ thành tố trong từng cấu trúc, tránh tình trạng khái niệm chung nhưng nội dung cụ thể lại thiếu.