Kịch Kabuki ra đời vào đầu thế kỷ 17 dưới hình thức biểu diễn tạp kỹ, sau đó trở thành loại hình kịch nghệ được ưa chuộng nhất trong thời kỳ Edo (1603-1868). Trang phục lộng lẫy, hóa trang đậm kết hợp vũ điệu mềm mại và điệu bộ truyền cảm là những đặc trưng của kịch Kabuki nổi tiếng tại Nhật Bản. Âm nhạc của kịch Kabuki cũng là sản phẩm tinh hoa của những nhạc cụ truyền thống như đàn ba dây shamisen, đàn koto 13 dây, sáo hoặc trống…
Tuy nhiên, cuộc sống hiện đại ở Nhật Bản phần nào khiến các loại hình nghệ thuật truyền thống như Kabuki không còn được hâm mộ nồng nhiệt như trước kia. Mặc dù có những nỗ lực “hồi sinh” kịch Kabuki, nhưng loại hình nghệ thuật lâu đời này vẫn mất dần sức hấp dẫn, nhất là khi giới trẻ Nhật Bản dành sự quan tâm nhiều hơn tới các thể loại nhạc hiện đại. Số nghệ sĩ kịch Kabuki ít ỏi còn lại chủ yếu xuất thân từ các gia đình có truyền thống từ nhiều thế hệ. Ngoài ra, phần lớn họ phải bắt đầu học từ khi 6 - 7 tuổi mới có thể theo con đường kịch nghệ chuyên nghiệp. Những nguyên tắc này khiến cho thế hệ trẻ càng khó khăn trong việc kế thừa di sản của kịch Kabuki.
Hoàn cảnh đưa nghệ sĩ Makoto Nishimura đến với kịch Kabuki khá đặc biệt, nên cách bà bảo tồn loại hình nghệ thuật này cũng hoàn toàn không theo những quy tắc cổ xưa. Năm 17 tuổi, Nishimura mới bắt đầu biết tới kịch Kabuki nhưng bù lại, bà may mắn được theo học Hiroaki Kikuoka, giảng viên âm nhạc nổi tiếng thời đó. Trong hơn 25 năm, Kikuoka đã khuyến khích Nishimura học nhạc truyền thống Nagauta trong kịch Kabuki và hết lòng dạy Nishimura chơi đàn shamisen ba dây, nhạc cụ quan trọng nhất của nhạc Nagauta.
Để thể hiện sự biết ơn đối với người thầy cũng như mối duyên với kịch Kabuki, bà Nishimura đã mở lớp miễn phí tại nhà để tiếp tục truyền bá kiến thức về âm nhạc Nagauta và kịch Kabuki cho các thế hệ tương lai. Tại khu Meguro của Thủ đô Tokyo, ngôi nhà nhỏ của bà Nishimura không chỉ lưu giữ những nhạc cụ truyền thống mà còn là nơi truyền dạy những kiến thức về âm nhạc Nagauta và kịch Kabuki cho nhiều học viên trong và ngoài nước.
Điều thú vị là học viên đầu tiên trong lớp đàn shamisen của bà Nishimura là một người Australia, chứ không phải người Nhật Bản. “Thực tế là có nhiều người nước ngoài quan tâm văn hóa truyền thống Nhật Bản. Bởi vậy, học sinh đến học đàn shamisen với tôi chủ yếu là người nước ngoài”, bà Nishimura cho biết. Trong 20 năm giảng dạy, danh sách học viên tìm hiểu âm nhạc Nagauta và kịch Kabuki đã vượt qua con số 200 người. Ngày nay, học viên của bà Nishimura đến từ nhiều nước trên thế giới như Đức, Pháp, Brazil, Nam Phi, Anh, Canada, Mỹ... “Hầu như tất cả người Nhật đều cho rằng người nước ngoài không thể chơi đàn shamisen vì chỉ có người Nhật mới làm được. Tôi đã chứng minh suy nghĩ đó là sai lầm”, bà Nishimura khẳng định.
Mỗi năm một lần, bà Nishimura lại tổ chức một buổi hòa nhạc để các học viên được mặc trang phục kimono truyền thống và chơi đàn shamisen cùng các nhạc sĩ chuyên nghiệp trước hơn 100 khán giả tại Tokyo. Ngoài ra, bà Nishimura còn xây dựng một hệ thống giảng dạy cơ bản và đầy đủ nhờ sự trợ giúp của TS William P. Malm, một học giả người Mỹ và là chuyên gia về âm nhạc Nhật Bản.
Nhờ những cuốn sách của TS Malm, bà Nishimura đã có thể giải thích các khái niệm âm nhạc cơ bản trong nhạc Nagauta để đại đa số khán giả có thể cảm thụ. Hai mục tiêu chính của Nishimura là truyền bá âm nhạc Nagauta và kịch Kabuki tới nhiều nước trên thế giới, đồng thời dạy cho học viên biết cảm thụ âm nhạc Nagauta và kịch Kabuki, từ đó hiểu hơn về văn hóa truyền thống Nhật Bản.