Anh Giàng Seo Chứ, cư dân bản Lùng Lùng, xã Lùng Lùng, tỉnh Lào Cai, vẫn nhớ rõ trận lũ vài năm trước khi nương ngô và căn nhà gỗ của mình bị cuốn trôi. Những ngày sau đó, mọi người trong nhà như lạc lõng giữa thiên nhiên dữ dội. Sau đợt đó, nhờ sự hướng dẫn của chính quyền xã và các tổ chức hỗ trợ, anh Chứ học cách xây nhà chống sạt lở bằng đá và đất, trồng cây quanh nhà để giữ đất, đồng thời cải tạo ruộng bậc thang cho sản xuất nông nghiệp.
Hành trình thay đổi
Câu chuyện của anh Chứ chỉ là một phần trong hành trình thay đổi của cả bản Lùng Lùng. Nhiều hộ dân khác cũng áp dụng kỹ thuật xây dựng chống sạt lở, trồng cây giữ đất và tham gia du lịch cộng đồng. Bản làng giờ không chỉ an toàn hơn trước thiên tai, mà còn trở thành điểm đến sinh thái hấp dẫn. Mỗi năm, bản đón hơn 4.000 lượt khách, trong đó nhiều người nước ngoài tìm đến để trải nghiệm cuộc sống bản địa bền vững.
Không chỉ riêng Lào Cai, ở tỉnh Hà Giang (cũ), vùng cao Đồng Văn và Quản Bạ cũng đang chứng kiến những thay đổi rõ rệt. Sau các đợt mưa lũ, chính quyền và người dân đã cùng nhau triển khai các mô hình “nhà an toàn”, “vườn rừng hộ gia đình”, và “du lịch sinh thái cộng đồng”. Nhiều hộ dân H’Mông, Dao, Tày tận dụng triền đá để trồng dược liệu, nuôi ong, kết hợp làm homestay đón khách. Những thung lũng trước kia khô cằn, giờ đã xanh mướt ngô, đậu và cây ăn quả.
Theo số liệu thống kê, chỉ trong giai đoạn 2020-2025, khu vực trung du và miền núi phía bắc đã có hơn 50 mô hình cộng đồng thích ứng thiên tai được triển khai, tập trung vào sinh kế bền vững, du lịch sinh thái và quản lý tài nguyên nước. Không ít bản làng từ chỗ từng chịu thiệt hại nặng do lũ quét, sạt lở, nay đã trở thành điểm sáng “kinh tế xanh vùng cao”.
Vững vàng nhờ chính sách xanh
Theo các nhà khoa học, thích ứng khí hậu ở vùng cao không chỉ là xây kè, làm cảnh báo sớm hay di dời dân khỏi vùng nguy cơ, mà quan trọng hơn là sống thuận theo tự nhiên. Đó là việc bố trí dân cư, sản xuất và hạ tầng theo cấu trúc sinh thái của núi rừng, giảm tối đa can thiệp phá vỡ địa hình và hệ thống thoát nước tự nhiên. Khi phát triển hài hòa với môi trường, mỗi ngôi nhà, mỗi thửa ruộng đều trở thành một “pháo đài xanh” trước biến đổi khí hậu.
Từ nhận thức đó, nhiều chính sách lớn đã được triển khai như Nghị quyết số 24-NQ/TW về thích ứng biến đổi khí hậu và Nghị quyết 98/NQ-CP về phát triển bền vững vùng trung du, miền núi phía bắc đều khẳng định “Phát triển kinh tế phải gắn liền với bảo vệ rừng, tài nguyên nước và đa dạng sinh học, coi đây là nền tảng để tăng khả năng chống chịu của vùng”.
Các chuyên gia khẳng định, khi các mô hình này được triển khai đồng bộ, chúng sẽ không chỉ giúp giảm thiểu rủi ro và nâng cao năng lực chống chịu của cộng đồng, mà còn mở ra hướng phát triển bền vững cho miền núi phía bắc, nơi thiên nhiên không còn là thách thức, mà trở thành đối tác đồng hành trong phát triển.
Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển kinh tế xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030 tiếp tục ưu tiên vốn đầu tư cho hạ tầng phòng chống thiên tai, hỗ trợ người dân chuyển đổi sinh kế theo hướng nông lâm kết hợp và phát triển du lịch sinh thái. Chương trình cũng khuyến khích nhân rộng mô hình “rừng cộng đồng”, nơi người dân trực tiếp tham gia quản lý và hưởng lợi từ tài nguyên rừng.