Mô hình canh tác bền vững

Biến đổi khí hậu khiến nhiều cây trồng truyền thống ở vùng trung du và miền núi Bắc Bộ liên tục mất mùa. Người dân buộc phải đổi cách làm nông, chuyển sang mô hình canh tác bền vững. Nhưng hành trình thích ứng ấy chưa bao giờ dễ dàng.

Mô hình trồng băng cỏ xen ngô giúp hạn chế sạt lở, xói mòn. Ảnh: Đức Bình
Mô hình trồng băng cỏ xen ngô giúp hạn chế sạt lở, xói mòn. Ảnh: Đức Bình

Thời tiết không đồng hành với mùa màng

Ngô không chỉ là cây lương thực mà còn là nguồn sống chính của hàng chục nghìn hộ nông dân ở Sơn La. Từ bao đời nay, ngô gắn liền với bữa ăn, với thu nhập, với những mùa gieo gặt trên triền đồi. Thế nhưng, những năm gần đây, khi mưa nắng trở nên thất thường, người trồng ngô ở vùng cao phải đối mặt với một nỗi lo ngày càng lớn đất đang dần “chết”.

Canh tác trên địa hình đồi dốc khiến người nông dân phải chấp nhận rủi ro xói mòn và thoái hóa đất như một phần tất yếu của nghề. Mỗi mùa mưa lũ đi qua, từng tấn đất màu mỡ bị cuốn trôi theo dòng nước, để lại những sườn đồi bạc trắng, trơ trọi sỏi đá. “Mưa to là đất trôi hết, năm nào cũng phải cuốc lại, bón thêm phân mà cây vẫn còi cọc. Mỗi năm thu được ít đi một chút, mà chi phí thì cứ tăng lên”, bà Nguyễn Thị Loan, nông dân tại xã Chiềng Sại (tỉnh Sơn La) chia sẻ.

Thực tế, nhiều khu vực trước kia chỉ cần trồng là được mùa, nay đã không còn khả năng giữ nước và dinh dưỡng. Phân bón đầu tư nhiều bao nhiêu cũng bị rửa trôi, khiến năng suất ngô ngày càng giảm.

Công nghệ “gõ cửa” nương rẫy

Trước thực trạng cấp bách này, nhiều địa phương đã chủ động triển khai nhiều biện pháp nhằm xây dựng nền nông nghiệp bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu. Theo đó, từ năm 2024, Công ty TNHH Syngenta Việt Nam phối hợp Viện Thổ nhưỡng Nông hóa, Sở Nông nghiệp và Môi trường Sơn La triển khai mô hình canh tác ngô bền vững trên đất dốc tại xã Chiềng Sại.

Mô hình được thực hiện trên diện tích 2,6 ha, có độ dốc trung bình hơn 26 độ. Giải pháp kỹ thuật là kết hợp giống ngô lai NK 6253 với băng cỏ Ghi-nê, loại cỏ rễ chùm phát triển mạnh, tạo hàng rào sinh học giữ đất và nước. Các dải cỏ rộng 0,2-0,3 m được trồng theo đường đồng mức, cách nhau 10 m, bao phủ khoảng 7% diện tích, hoạt động như những “con đê” tự nhiên giúp giảm tốc độ dòng chảy và hạn chế xói mòn.

Hay như hồi đầu năm 2025, tỉnh Yên Bái (cũ) cũng bắt đầu chuyển hướng mạnh từ trồng trọt truyền thống sang nông nghiệp hữu cơ, ứng dụng công nghệ cao. Chẳng hạn như áp dụng hệ thống tưới tiết kiệm, sử dụng phân bón hữu cơ và công nghệ giám sát canh tác đang giúp nông dân giảm lãng phí tài nguyên, đồng thời nâng cao năng suất. Điển hình là mô hình sản xuất quế hữu cơ tại các huyện Văn Yên và Trấn Yên (cũ).

Tuy nhiên, trên mỗi hành trình thay đổi vẫn luôn có những “nút thắt” song hành, cụ thể ở đây là vốn, sự thích ứng và đầu ra. Các hệ thống tưới tiêu, hay giống chịu hạn… đều cần chi phí lớn mà đa phần nông dân không đủ khả năng đầu tư; chính sách tín dụng xanh vẫn xa vời với hộ sản xuất nhỏ. Ở nhiều bản làng, kỹ sư nông nghiệp vẫn là khái niệm xa lạ, người dân tự học hỏi là chính, còn kiến thức về canh tác hữu cơ hay vận hành công nghệ số mới chỉ ở mức ban đầu. Đầu ra cho sản phẩm sạch cũng chưa ổn định, câu chuyện “được mùa mất giá” vẫn lặp lại như một vòng luẩn quẩn.

Câu chuyện của bà Loan, không chỉ là nỗi lo riêng của một người nông dân, mà là thực tế đang diễn ra ở khắp các vùng trung du và miền núi phía bắc, nơi sinh kế của hàng vạn hộ dân đang bị thử thách bởi chính biến đổi của thiên nhiên.