Câu chuyện “phát triển trong rủi ro khí hậu” không còn là khái niệm xa xôi, mà đang hiện hữu trên từng con dốc, triền đồi của 9 tỉnh miền núi và trung du Bắc Bộ.
Dồn dập thiên tai, thiệt hại chồng chất
Số liệu cho thấy, chỉ trong ba năm 2023-2025, vùng trung du và miền núi Bắc Bộ đã liên tiếp hứng chịu hàng chục đợt mưa lũ, sạt lở đất và lũ quét nghiêm trọng. Năm 2023, hơn 2.400 ngôi nhà bị ngập, hơn 2.400 ha lúa và hoa màu bị hư hại, nhiều tuyến giao thông huyết mạch bị chia cắt bởi hàng chục nghìn m3 đất đá.
Sang năm 2024, bão số 3 cùng hoàn lưu sau bão tiếp tục gây nên những cảnh tượng tang thương, riêng hai tỉnh Lào Cai và Cao Bằng ghi nhận gần 100 người chết và mất tích do sạt lở.
Tình trạng này lại tái diễn từ đầu năm nay, ngoài 2 điểm nóng Lào Cai và Cao Bằng, nhiều tỉnh khác như Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Tuyên Quang, Phú Thọ đều nằm trong vùng có cấp độ rủi ro cao nhất về sạt lở, lũ quét với hàng chục người chết, mất tích.
Thiên tai không chỉ gây tổn thất trước mắt mà còn âm thầm bào mòn nền tảng phát triển của cả vùng. Hạ tầng giao thông bị sạt lở, nhiều tuyến quốc lộ thường xuyên tê liệt. Nông nghiệp chịu thiệt hại nặng nề khi đất canh tác bị cuốn trôi, du lịch ngưng trệ.
Như một nghịch lý, không ít dự án phát triển hạ tầng, khu dân cư, hay thủy điện nhỏ tại các địa phương lại “vô tình” khiến thiên tai thêm khốc liệt. Khi những triền đồi bị san gạt, rừng phòng hộ bị xẻ dọc làm đường, dòng chảy tự nhiên bị chặn lại, “mưa lũ” không còn là hiện tượng thiên nhiên thuần túy mà là kết quả của một quá trình phát triển thiếu tính toán tới rủi ro khí hậu.
Khảo sát của Cục Biến đổi khí hậu phối hợp với Cơ quan Phát triển Pháp (AFD) cho thấy, 65% các địa phương trong vùng đánh giá tác động của biến đổi khí hậu đối với nông nghiệp là nghiêm trọng hoặc rất nghiêm trọng, tiếp đó là lâm nghiệp (59%), du lịch và giao thông. Trong khi đó, các hiện tượng sạt lở đất, lũ quét, hạn hán, nắng nóng cực đoan đều có xu hướng tăng nhanh.
Bài toán phát triển mới
Những biến động khí hậu đang buộc chúng ta phải định nghĩa lại khái niệm “phát triển kinh tế vùng cao”. Phát triển không thể chỉ là mở đường, xây thủy điện, hay khai thác khoáng sản. Phát triển trong bối cảnh khí hậu cực đoan phải là quá trình tăng trưởng có khả năng chống chịu, mỗi dự án, mỗi công trình đều được thiết kế để thích ứng, để bảo vệ con người và môi trường.
Ông Nguyễn Tuấn Quang, Phó Cục trưởng Biến đổi khí hậu, Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho rằng: “Chỉ khi các giải pháp thích ứng được lồng ghép vào thể chế, quy hoạch và kế hoạch phát triển vùng, chúng ta mới có thể giảm thiểu rủi ro và biến thách thức khí hậu thành cơ hội phát triển bền vững”.
Các chuyên gia cho rằng, vùng trung du và miền núi Bắc Bộ đang rất cần một mô hình phát triển “thích ứng chủ động”, được xây dựng trên cơ sở dữ liệu khoa học.
Hiện Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam đã phối hợp với nhiều cơ quan nghiên cứu để triển khai bản đồ cảnh báo nguy cơ trượt lở, lũ quét đến tận cấp thôn bản; phát triển ứng dụng cảnh báo sớm trên điện thoại; và xây dựng cơ sở dữ liệu về thiên tai phục vụ công tác quản lý rủi ro. Những nền tảng này giúp các địa phương chủ động hơn trong quy hoạch dân cư, bố trí tái định cư an toàn, thay vì chỉ ứng phó bị động khi thảm họa đã xảy ra.
Tại Sơn La, đập Sabo đầu tiên do Cục Quản lý đê điều và JICA hợp tác xây dựng đã chứng minh hiệu quả trong việc giảm nguy cơ lũ quét, giữ bùn đá và bảo vệ khu dân cư hạ lưu, mở ra hướng nhân rộng cho nhiều công trình tương tự giai đoạn 2026-2030.
Tuy nhiên, hạ tầng chỉ là một phần, thích ứng khí hậu còn đòi hỏi thay đổi tư duy phát triển, từ quy hoạch đô thị dựa trên địa hình tự nhiên đến nông nghiệp gắn với bảo vệ rừng, phát triển năng lượng tái tạo và kinh tế xanh làm trục tăng trưởng của vùng.
Các chuyên gia cảnh báo, nếu không chuyển đổi kịp thời, khu vực miền núi phía Bắc có thể đối mặt với mức tăng nhiệt trung bình 2,2°C và lượng mưa tăng 6-12% vào giữa thế kỷ này. Điều này cũng đồng nghĩa với nguy cơ lũ quét, sạt lở đất tăng gấp đôi so hiện nay.
Trong bối cảnh đó, đầu tư cho khả năng chống chịu không chỉ là trách nhiệm của Nhà nước mà là sự chung tay của toàn xã hội. Doanh nghiệp khi đầu tư vào vùng cao cần tính toán chi phí khí hậu trong dự án. Người dân cần được trang bị kỹ năng phòng tránh, sử dụng công nghệ cảnh báo sớm. Các nhà khoa học cần tiếp tục hiến kế, và các cấp quản lý phải biến những bản quy hoạch chống thiên tai thành hiện thực.
Tiêu điểm: Thích ứng để sống chung biến đổi khí hậu
2. Vùng cao xanh hơn sau những mùa mưa lũ
Theo Chiến lược quốc gia thích ứng với biến đổi khí hậu đến năm 2050, vùng núi và trung du Bắc Bộ được xác định là “điểm nóng dễ tổn thương nhất”. Đây cũng là khu vực nghèo nhất cả nước, chiếm chưa đến 10% GDP quốc gia nhưng lại gánh phần lớn thiệt hại do thiên tai.