Quản trị “mỏ khoáng sản mới” cho phát triển bền vững

Trung du và miền núi Bắc Bộ đang bước vào giai đoạn “thức giấc” của tài nguyên khoáng sản, trở thành nguồn cung vật liệu, nguyên liệu quan trọng cho phát triển kinh tế đất nước.

UBND tỉnh Phú Thọ quyết định xử phạt đối với Công ty cổ phần Hoàn Hảo về hành vi khai thác cát trái phép. Ảnh: ND
UBND tỉnh Phú Thọ quyết định xử phạt đối với Công ty cổ phần Hoàn Hảo về hành vi khai thác cát trái phép. Ảnh: ND

Vùng đất giàu khoáng sản giữa làn sóng phát triển mới

Những đoàn xe chở đất đá nối dài trên các tuyến đường liên xã ở Phú Thọ. Từ Yên Bái, Tuyên Quang, Thái Nguyên..., hoạt động khai thác khoáng sản đang ngày càng hiện diện rõ nét.

Theo các quy hoạch và đánh giá địa chất, Trung du và miền núi Bắc Bộ là khu vực có trữ lượng khoáng sản đa dạng bậc nhất cả nước. Khi hàng loạt dự án giao thông trọng điểm, khu công nghiệp, khu đô thị được triển khai, nhu cầu vật liệu xây dựng tăng đột biến, khiến khu vực này được xem là “mỏ khoáng sản mới” của Việt Nam.

Phú Thọ, cửa ngõ của vùng Trung du, là một thí dụ điển hình. Toàn tỉnh hiện có 219 dự án khai thác và thu hồi khoáng sản còn hiệu lực, trải dài từ khai thác đá xây dựng, cát sỏi lòng sông đến khoáng sản làm nguyên liệu sản xuất. Khoáng sản trở thành nguồn lực quan trọng đóng góp cho tăng trưởng, tạo việc làm và tăng thu ngân sách địa phương.

Ở nhiều vùng quê, mỏ mở ra kéo theo đường sá được đầu tư, dịch vụ phát triển, lao động địa phương có thêm sinh kế. Không ít hộ dân từ bỏ canh tác nông nghiệp kém hiệu quả để tham gia chuỗi dịch vụ quanh mỏ, thu nhập cải thiện rõ rệt.

Tuy nhiên, bức tranh khai thác khoáng sản ở vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ không chỉ có gam mầu sáng. Tại nhiều địa phương, ô nhiễm môi trường, sạt lở, xung đột đất đai và áp lực hạ tầng đang trở thành vấn đề nhức nhối.

Ở Phú Thọ, người dân sống gần các mỏ đá, mỏ đất san lấp phản ánh tình trạng bụi mù, rung chấn do nổ mìn, xe tải trọng lớn cày nát đường làng. Tại Thanh Sơn, hoạt động khai thác, vận chuyển khoáng sản phục vụ trạm trộn bê-tông khiến nhiều hộ dân phải “đóng cửa cả ngày vẫn không tránh được bụi”.

Đáng lo ngại hơn là tình trạng khai thác khoáng sản trái phép. Tại xã Đại Đồng (Phú Thọ), máy xúc gắn búa thủy lực phá đá trái phép hoạt động trong thời gian dài. Hoạt động chỉ bị phát hiện, xử lý khi báo chí và người dân lên tiếng mạnh mẽ. Thực tế này phản ánh một hạn chế chung của nhiều địa phương miền núi: Địa bàn rộng, địa hình phức tạp, lực lượng mỏng, trong khi lợi ích từ khoáng sản đủ lớn để các đối tượng vi phạm tìm cách né tránh, đối phó.

Siết quản lý: Yêu cầu cấp thiết

Trong bối cảnh đó, UBND tỉnh Phú Thọ vừa ban hành Chỉ thị 03 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quản lý khoáng sản không chỉ có ý nghĩa trong phạm vi tỉnh, mà còn gợi mở hướng tiếp cận cho toàn vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ.

Tinh thần xuyên suốt của chỉ thị là không đánh đổi môi trường, trật tự xã hội lấy tăng trưởng ngắn hạn. Rà soát lại quy hoạch, loại bỏ các mỏ hiệu quả thấp, công nghệ lạc hậu; đẩy mạnh đấu giá quyền khai thác; tăng cường thanh tra, kiểm tra; quy rõ trách nhiệm người đứng đầu nếu để xảy ra khai thác trái phép.

Tại kỳ họp HĐND tỉnh, lãnh đạo UBND tỉnh Phú Thọ khẳng định quan điểm quản lý khoáng sản phải minh bạch, công khai, đúng pháp luật, đáp ứng nhu cầu phát triển nhưng không để thất thoát tài nguyên và ngân sách. Đây cũng là yêu cầu đặt ra cho toàn vùng - nơi khoáng sản vừa là lợi thế, vừa là thách thức lớn về quản trị.

Người dân sống quanh mỏ ở Phú Thọ cũng như nhiều tỉnh Trung du và miền núi Bắc Bộ không phủ nhận vai trò của khoáng sản đối với phát triển. Điều họ mong muốn là khai thác phải có trách nhiệm, gắn với bảo vệ môi trường, an toàn hạ tầng và sự tham gia giám sát của cộng đồng. Như cách mà một người dân ở xã Thanh Sơn đã chia sẻ “Nếu làm đúng, giảm bụi, chạy xe đúng giờ, sửa đường cho dân thì chúng tôi sẵn sàng ủng hộ”.

Nếu được quản lý tốt, khoáng sản có thể trở thành đòn bẩy để vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ bứt phá, rút ngắn khoảng cách phát triển với đồng bằng. Ngược lại, nếu buông lỏng quản lý, “mỏ khoáng sản mới” rất dễ trở thành điểm nóng về môi trường, xã hội, để lại hệ lụy lâu dài cho các thế hệ sau.

Trên các tuyến sông lớn như sông Hồng, sông Đà, khai thác cát sỏi sai thiết kế, vượt công suất từng gây sạt lở bờ sông, đe dọa an toàn đê điều và đời sống dân cư. Phú Thọ đã phải tạm dừng hàng chục mỏ cát không tuân thủ quy định trong giai đoạn 2024-2025.

Có thể bạn quan tâm

Mỏ apatit ở Lào Cai.

Tận dụng hay để dành

Trong bối cảnh khoáng sản chiến lược ngày càng gắn với an ninh công nghiệp và chuyển dịch năng lượng toàn cầu, trung du và miền núi Bắc Bộ không chỉ đứng trước câu hỏi “có khai thác hay không” mà quan trọng hơn là khai thác theo cách nào để giữ lại giá trị cho phát triển lâu dài.

Công trình đập Sabo đầu tiên của Việt Nam tại bản Piệng, tỉnh Sơn La. Ảnh: Bình Minh

Phát triển trong rủi ro

Những năm gần đây, thiên tai và biến đổi khí hậu đang trở thành “phép thử” khắc nghiệt đối với tiến trình phát triển bền vững của Việt Nam, đặc biệt ở khu vực trung du và miền núi phía Bắc nơi địa hình chia cắt, độ dốc lớn, cơ sở hạ tầng yếu và điều kiện ứng phó còn hạn chế.

Mô hình trồng băng cỏ xen ngô giúp hạn chế sạt lở, xói mòn. Ảnh: Đức Bình

Mô hình canh tác bền vững

Biến đổi khí hậu khiến nhiều cây trồng truyền thống ở vùng trung du và miền núi Bắc Bộ liên tục mất mùa. Người dân buộc phải đổi cách làm nông, chuyển sang mô hình canh tác bền vững. Nhưng hành trình thích ứng ấy chưa bao giờ dễ dàng.

Bản làng giờ không chỉ an toàn hơn trước thiên tai, mà còn trở thành điểm đến sinh thái hấp dẫn. Ảnh: Nam Nguyễn

Vùng cao xanh hơn sau những mùa mưa lũ

Sau những mùa mưa lũ dữ dội, nhiều nơi đã thay đổi cách sống và hướng phát triển. Người dân học cách làm nhà an toàn, trồng rừng giữ đất, phát triển du lịch sinh thái, biến thiên nhiên từ thử thách thành nguồn sống bền vững.