Những cô gái ba đảm đang quạt thóc vàng gửi ra tiền tuyến ở Vũ Thư, Thái Bình, năm 1967. (Ảnh: Mầu Hoàng Thiết)
Những cô gái ba đảm đang quạt thóc vàng gửi ra tiền tuyến ở Vũ Thư, Thái Bình, năm 1967. (Ảnh: Mầu Hoàng Thiết)

Trên chặng đường "vừa kháng chiến, vừa kiến quốc"

Kể từ khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đến năm 1975, đất nước đã trải qua hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Đó là cuộc chiến tranh nhân dân toàn dân, toàn diện, vừa chiến đấu giữ độc lập dân tộc, vừa xây dựng chế độ xã hội mới.

Trong suốt quá trình đó, vấn đề xây dựng nền kinh tế có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Trải qua muôn vàn khó khăn trong suốt 30 năm kháng chiến, kiến quốc (1945-1975), nền kinh tế quốc gia vẫn hoàn thành nhiệm vụ phục vụ đời sống nhân dân và nuôi quân ăn no đánh thắng.

Nền kinh tế Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được xây dựng và phát triển khác nhau trong hai thời kỳ kháng chiến nhưng có một đặc trưng chung mang tính chủ đạo nhất là nền kinh tế-quốc phòng, lấy phục vụ công cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc là nhiệm vụ then chốt.

Ruộng rẫy là chiến trường, cuốc cày là vũ khí, nhà nông là chiến sĩ…

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã đánh đổ chế độ thực dân, phong kiến giành lại độc lập, tự do cho dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên, ngay sau ngày giành chính quyền, đất nước kiệt quệ vì chính sách khai thác, bóc lột của thực dân, phong kiến và nạn đói khủng khiếp năm 1945 gây muôn vàn khó khăn cho chính quyền dân chủ nhân dân non trẻ.

Trong tình thế nguy nan mọi mặt về kinh tế, xã hội, quốc phòng, Chủ tịch Hồ Chí Minh, người đứng đầu Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã coi xóa nạn đói - giặc đói là nhiệm vụ hàng đầu. Với chủ trương đoàn kết, nhường cơm xẻ áo, toàn dân tham gia tận dụng đất, trồng mọi loại lương thực, rau màu nên nạn đói được khắc phục.

Trong những năm đầu kháng chiến (1946- 1949), nền kinh tế độc lập, tự chủ của dân tộc được xây dựng dựa trên hai chính sách căn bản: Một là, tự cung tự cấp, lấy nông nghiệp là trọng tâm hàng đầu để tiến hành kháng chiến, kiến quốc. Phương châm sản xuất, canh tác được Chủ tịch Hồ Chí Minh khái quát: Ruộng rẫy là chiến trường, cuốc cày là vũ khí, nhà nông là chiến sĩ…(1); Hai là, huy động kinh tế, tài chính, lương thực nuôi quân và hệ thống chính trị từ sự đóng góp của nhân dân. Từ năm 1950 đến năm 1954, ngoài sự tự lực trong nước, nền kinh tế Việt Nam Dân chủ Cộng hòa còn được ủng hộ, chi viện của một số nước XHCN, trước hết là của Trung Quốc và Liên Xô.

Ngay sau ngày giành chính quyền, nạn đói khủng khiếp năm 1945 gây muôn vàn khó khăn cho chính quyền dân chủ nhân dân non trẻ. Chủ tịch Hồ Chí Minh, người đứng đầu Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã coi xóa nạn đói - giặc đói là nhiệm vụ hàng đầu.

So với trước Cách mạng Tháng Tám, kinh tế Việt Nam có biến chuyển. Dù đại thể nông nghiệp là “mặt trận hàng đầu” nhưng đã có các nhóm ngành kinh tế công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. Bên cạnh kinh tế cá thể là chủ đạo đã có một bộ phận thuộc kinh tế toàn dân và tập thể. Nền kinh tế được Chính phủ xây dựng phục vụ hai nhiệm vụ: kháng chiến và kiến quốc. Có kháng chiến mới bảo vệ và kiến thiết được quốc gia và ngược lại, kiến quốc là điều kiện cốt yếu để kháng chiến.

Với phương châm phấn đấu “Ăn no, đánh thắng”

Sau năm 1954, đất nước bị chia cắt làm hai miền: miền bắc được hoàn toàn giải phóng, trong khi đó ở miền nam, Hoa Kỳ dựng lên chính quyền Việt Nam cộng hòa nhằm chống Cộng, chia cắt lâu dài đất nước. Mưu mô của Hoa Kỳ và chính quyền Sài Gòn đã đi ngược lại nguyện vọng thiêng liêng của nhân dân Việt Nam: Đất nước phải độc lập, thống nhất. Vì thế, nhân dân cả nước đã đứng lên tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước kéo dài hơn hai mươi năm (1954-1975). Trong cuộc chiến đấu vô cùng ác liệt đó, miền bắc luôn giữ vững vai trò, vị trí là hậu phương lớn, yếu tố quyết định thành bại đối với sự nghiệp cách mạng cả nước. Công cuộc xây dựng miền bắc xã hội chủ nghĩa trải qua hai giai đoạn: 1954-1965 và 1965-1975.

Từ năm 1954 đến năm 1965, miền bắc xây dựng kinh tế trong thời bình. Sau ba năm khôi phục (1955-1957), các chỉ tiêu kinh tế của miền bắc đã đạt và vượt năm 1939, năm trước chiến tranh thế giới. Từ năm 1958-1960, Đảng và Chính phủ chủ trương cải tạo xã hội chủ nghĩa: cải tạo thành phần kinh tế tư bản, tiểu thương, tiểu chủ và kinh tế cá thể của nông nghiệp thành thành phần kinh tế quốc doanh (Nhà nước) hoặc kinh tế tập thể (chủ yếu là hợp tác xã sản xuất nông nghiệp). Chính sách quốc hữu hóa và tập thể hóa đã làm thay đổi diện mạo kinh tế miền bắc: từ nhiều thành phần còn lại hai thành phần kinh tế cơ bản là toàn dân và tập thể. Trên cơ sở nền kinh tế mới, từ năm 1961 đến 1965, miền bắc thực hiện kế hoạch 5 năm (1961-1965) với mục tiêu xây dựng cơ sở, nền móng đầu tiên đưa miền bắc tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội.

nhung-vua-ngo-ven-song-hong-song-day-trong-khang-chien-chong-my-nam-1967-anh-mau-hoang-thiet.jpg
Những vựa ngô ven sông Hồng, sông Đáy trong kháng chiến chống Mỹ, năm 1967. (Ảnh: Mầu Hoàng Thiết)

Năm 1964, khi miền bắc đang bước vào năm cuối thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trở nên vô cùng ác liệt. Hoa Kỳ tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại hòng đưa hậu phương miền bắc trở về “thời kỳ đồ đá”. Trong điều kiện đó, Đảng và Chính phủ chủ trương chuyển hướng xây dựng kinh tế miền bắc, không ưu tiên phát triển công nghiệp nặng mà chuyển sang xây dựng công nghiệp địa phương vừa và nhỏ, kết hợp kinh tế với quốc phòng. Do đó, dù chiến tranh phá hoại của Hoa Kỳ ở miền bắc vô cùng ác liệt, không có thành phố nào không bị đánh phá, không có khu công nghiệp nào không bị tàn phá… nhưng miền bắc vẫn vững vàng chia lửa với miền nam trong trạng thái có lúc “hạt gạo căn làm 4”.

Ăn no đánh thắng trở thành phương châm phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân trong thời kỳ lịch sử vẻ vang này.

Vừa chiến đấu, vừa kiến thiết xây dựng đất nước là đặc điểm bao trùm lên nền kinh tế Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Với chính sách tự lực, tự cường, tranh thủ viện trợ quốc tế nên đất nước đã vượt qua được mọi khó khăn do cuộc chiến tranh gây ra. Khái quát lịch sử kinh tế Việt Nam thời kỳ hiện đại cho thấy chính sách nổi bật trong xây dựng kinh tế Việt Nam trong 30 năm (1945-1975) luôn lấy nông nghiệp làm hàng đầu. Nông nghiệp quốc gia vừa là tiền đề, điểm xuất phát trong xây dựng nền kinh tế tự chủ vừa là yếu tố cực kỳ quan trọng phục vụ công cuộc kháng chiến bảo vệ độc lập dân tộc. Ăn no đánh thắng trở thành phương châm phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân trong thời kỳ lịch sử vẻ vang này.

Từ năm 1960 trở đi nền kinh tế Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có thay đổi lớn, xuất phát từ thay đổi cơ chế quản lý kinh tế: xây dựng nền kinh tế quốc dân dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Đó là sự đòi hỏi tất yếu phải xây dựng một phương thức sản xuất mới, đã hình thành cơ sở ngay trong thời kỳ vận động giải phóng dân tộc: Làm cách mạng giải phóng dân tộc, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Mặt khác, chính mô hình tập thể hóa, nền kinh tế dựa vào chế độ công hữu tư liệu sản xuất lại trở thành yếu tố khách quan tạo nên sức mạnh tập thể, đoàn kết, nâng cao ý chí và phát huy truyền thống đại đoàn kết dân tộc để giành thắng lợi vẻ vang trong công cuộc kháng chiến, kiến quốc.

***

50 năm sau Ngày thống nhất đất nước, 80 năm sau Ngày Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nền kinh tế Việt Nam hôm nay đã có những bước phát triển vượt bậc, hội nhập sâu rộng với kinh tế toàn cầu. Cả ba nhóm ngành kinh tế công nghiệp, dịch vụ và nông nghiệp phát triển bền vững, toàn diện, đang vươn mình sang thời kỳ phát triển mới.

Trong khi đất nước và nền kinh tế thay đổi, phát triển từng ngày, nhân dân cả nước luôn nhớ về Chủ tịch Hồ Chí Minh, người sáng lập, rèn luyện Đảng ta, người khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong Di chúc thiêng liêng của mình, Người căn dặn: Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân(2). Lời di chúc thiêng liêng ấy đã được toàn Đảng, toàn quân, toàn dân nghiêm túc thực hiện, từng bước đưa Việt Nam trở nên giàu mạnh, đem lại đời sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.

------------

(1) “Thư gửi nông dân thi đua canh tác”, Hồ Chí Minh toàn tập, tập 7, 1951-1952, xuất bản lần thứ ba, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.44.

(2) “Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh công bố năm 1969”, Hồ Chí Minh toàn tập, tập 15, 1966-1969, xuất bản lần thứ ba, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.622.

Có thể bạn quan tâm

Các khối quần chúng trong ngày Độc lập.

Tết Độc lập trong ký ức người Hà Nội

Những con người từng là nhân chứng của lịch sử, của ngày Tết độc lập năm ấy rồi sẽ trở thành thiên cổ. Nhưng những ký ức về mùa thu Tháng Tám, về ngày Lễ Tuyên ngôn độc lập sẽ mãi được giữ gìn, được lan tỏa bằng tình yêu của những con người sống trên mảnh đất Thủ đô nghìn năm văn hiến này.

Suối Lê Nin, Pác Bó, xã Trường Hà (mới), tỉnh Cao Bằng.

Rừng xưa ôm bóng Người

Đời sống nhân dân ở thôn Pác Bó (Cao Bằng), nơi Bác Hồ trở về xây dựng căn cứ địa cách mạng sau 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước, và An toàn khu Tân Trào (Tuyên Quang) đã được cải thiện rõ nét.

Khối đội hình Quân đội nhân dân Việt Nam diễu binh tại Quảng trường Đỏ. (Ảnh: AP)

Điều quý giá nhất là sẵn sàng hy sinh cho Tổ quốc!

"Cơn mưa chiều chợt xả nước xuống thành phố oi bức tạo cảm giác mát mẻ. Thành phố đã lên đèn lung linh bên dòng sông Sài Gòn, không hình dung nổi mấy chục năm trước, nơi đây đã đi qua chiến tranh ác liệt với bao máu xương của những người yêu nước đã ngã xuống để con cháu hôm nay được hưởng thái bình".

Các chiến sĩ tiêu binh danh dự cài huy chương trên Quân kỳ quyết thắng. (Ảnh: THÀNH ĐẠT)

Tháng Tám, dưới Quân kỳ...

Khoảng sân cháy nắng. Sáu chiến sĩ mặt đỏ gay, nhưng vẫn giữ nét nghiêm trang hướng về phía trước. Lưng đầm đìa mồ hôi, nắm chắc cán Quân kỳ trong tay, Binh nhất Trương Bảo Lượng hô vang: “Nghiêm. Đi đều bước. Nhìn bên phải, chào!”. Giậm mạnh chân, cả tổ bắt đầu di chuyển.

Ban Tổ chức “Ngày Độc lập”, họp mặt ngày 28/8/1995 tại số 47 Hàng Quạt (Hà Nội). (Ảnh: NGUYỄN ĐÌNH TOÁN)

Hiện ra trên con đường tìm lại...

Chúng tôi may mắn gặp được hai người thế hệ sau gần nhất với những nhân vật lịch sử trong ngày Lễ Quốc khánh trọng đại năm xưa. Đó là cựu phóng viên nhiếp ảnh Nguyễn Đình Toán (sinh năm 1947) và họa sĩ-nhà điêu khắc Lê Lai (sinh năm 1956) - con rể út của cụ Bùi Trang Chước (1915-1992) - tác giả chính của mẫu Quốc huy Việt Nam.

Chính phủ của quốc dân đồng bào

Chính phủ của quốc dân đồng bào

Chính phủ lâm thời ra đời từ cuộc Tổng khởi nghĩa vang dội, mang lại quyền lợi nhân dân chưa từng được hưởng và đã thực hiện những nhiệm vụ cấp bách giữ vững nền độc lập, cũng như lâu dài kiến thiết quốc gia. Chính phủ lâm thời hợp lòng dân, được toàn dân ủng hộ, bảo vệ.

Nhân dân Hà Nội đón mừng Chủ tịch Hồ Chí Minh và các vị được giới thiệu ứng cử Đại biểu Quốc hội. Hà Nội, ngày 5/1/1946. (Nguồn: Bảo tàng Hồ Chí Minh)

Tưng bừng Ngày Tổng tuyển cử đầu tiên

Lời hiệu triệu của Ban Thường trực Quốc hội Việt Nam ngày 6/1/1951 trong dịp kỷ niệm ngày Tổng tuyển cử, đã tái hiện phần nào bầu không khí những ngày trọng đại đầu năm 1946.

Thời cơ cho hôm nay

Thời cơ cho hôm nay

Mùa thu nay khác rồi, câu thơ trong bài "Đất nước" của Nguyễn Đình Thi lại ngân rung trong tôi những ngày Tháng Tám. Ấy là Tháng Tám của mùa thu xanh thắm, trời trong, mây nõn, như đợi chờ, như hẹn ước.

Hồ Chí Minh và Tuyên ngôn Độc lập

Hồ Chí Minh và Tuyên ngôn Độc lập

Với những giá trị cốt lõi về quyền dân tộc và quyền con người, bản Tuyên ngôn Độc lập là sự kết tinh cao cả những giá trị nhân văn của nhân loại.

Nói "không" là cách giữ lại những điều quan trọng nhất!

Nói "không" là cách giữ lại những điều quan trọng nhất!

Trong thời điểm lịch sử từng có những xung đột đau thương, nhà văn, dịch giả Lady Borton đã chọn đứng về phía sự thật, phía những giá trị nhân văn. Những cuốn sách của bà không chỉ mang lại các góc nhìn chân thực về lịch sử mà còn là nhịp cầu hòa giải và tôn vinh tinh thần đoàn kết, ý chí kiên cường của nhân dân Việt Nam. 

Góc khuất của những huyền thoại

Góc khuất của những huyền thoại

Hệ thống bảo tàng Biệt động Sài Gòn-Gia Định có tới 11 điểm dừng chân khác nhau và còn tiếp tục tăng thêm nữa, bởi gia đình Anh hùng Lực lượng vũ trang Trần Văn Lai vẫn đi mua và khôi phục lại những địa chỉ từng là cơ sở cách mạng xưa...

Từ một niềm tin bất diệt

Từ một niềm tin bất diệt

“Đoàn quân Việt Nam đi chung lòng cứu quốc, bước chân dồn vang trên đường gập ghềnh xa, cờ in máu chiến thắng mang hồn nước… /Đoàn quân Việt Nam đi, sao vàng phấp phới…”. Văn Cao viết lời Tiến quân ca khi ông vừa qua tuổi 21, chưa từng tận mắt thấy lá cờ đỏ sao vàng; tất cả chỉ là từ trí tưởng tượng của ông.